Bamanpati
Ba jiao feng
Quăng Tàu
Alangium chinense
(Lour.) Harms
Alangiaceae
Đại cương :
Danh pháp đồng nghĩa :
Alangium begoniifolium (Roxb.) Baill. (1876).
Cây Quăng Alangium chinense được
sản xuất từ Cameroun cho đến
Ethiopie, Kenya
và Tanzanie, và miền nam Zimbabwe
và Mozambique.
Nó cũng được phân phối rộng rãi ở
Châu Á nhiệt đới từ Inde đến Tàu, Japon, Thaïlande, Việt Nam, Philippines và Indonésie.
Những
cây bản địa là những cây có kích thước lớn và chỉ sống ở Hồng Kông.
Hầu hết
những cây này chỉ có ở Hồng Kông, nó kết hợp với môi trường tự nhiên của nguồn
gốc bản địa, nó là một trong những thành viên của hệ thống môi trường và của chuổi
thực phẩm và nó có thể duy trì sự cân bằng và tình trạng ổn định với những thành viên khác của hệ thống
môi trường écosystème
Alangium
chinense là một loài tăng trưởng nhanh của những loài đi tiên phong chánh được
tìm thấy trong những thế đất bị xáo trộn và những khu rừng của vùng núi cho đến
2000 m cao so với mực nước biển trong Phi Châu và đến 3000 m trong dãy Himalaya.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật :
Tiểu mộc, kích thước trung bình
đến 24 m cao, đường kính ngang ngực khoảng 30 cm, bề mặt vỏ láng và màu xám,
những nhánh màu nâu tím, láng nhưng có lông phún dầy, màu sét khi còn non, mang
những nốt trắng thưa thớt.
Lá, mọc cách, lá nguyên, không lá kèm, có phiến hẹp,
hình ellip bầu dục rộng, dài 4-19 cm x 2,5-2,5 cm, chót có đuôi, đáy hình nêm tròn hơi bất xứng, có lông sét
đầy mặt dưới, cuống lá 1-2 cm, có lông sét, gân lá 5-7 phát xuất từ đáy lá,
những gân nối với nhau bởi nhiều gân nhỏ song song vuông góc với gân chánh.
Phát hoa, tụ tán ở nách lá, có lông
phún, từ 1 đến 4 nhánh, 3 đến 23 hoa, không lông, cuống phát hoa dài đến 2 cm,
lá bắc hình tam gíác, và những nhánh dài 2,5 cm.
Hoa,
lưỡng phái, đều, 5-8 phần, màu trắng kem hoặc vàng, mùi thơm nhẹ, nụ hoa hình
ống và thường phồng lên ở đáy như cái bình, cuống hoa dài 3-5,5 mm.
- đài
hoa, hình trụ ống hoặc có dạng như cái quặng, 7 thùy, 1,5 mm dài, bao phủ bởi
những lông thô
- cánh
hoa, dài 6 mm, có lông ở chót, dạng cái lưỡi từ 8 đến 13,5 mm x 1 – 1,5 mm, có
lông mịn bên ngoài, bên trong láng, cuốn ra bên ngoài khi nở ra. .
- tiểu
nhụy cùng một số lượng với cánh hoa khoảng 5-6 tiểu nhụy, 5-9 mm dài, có lông ở
đáy, , bao phấn hẹp thẳng ôm lấy vòi nhụy.
- Bầu
noãn hạ, 3 buồng, vòi nhụy hình ống, 7-10 mm dài, có lông, nuốm hơi có thùy.
Trái quả nhân cứng dài 1 cm, hình
cầu, 8-10 mm x 4-9 mm tròn, thon ở đỉnh
ngọn, màu tím nhạt, đài hoa còn tồn tại khi trưởng thành.
Hạt, chất lòng trắng trứng albumineuse.
Bộ phận sử dụng :
Nguyên Cây, thân, chồi lá, rễ.
Thành phần hóa học và dược chất :
● Đặc tính
vật lý của Cây :
▪ Lõi, cây Quăng có màu sắc thay đổi từ trắng đến màu xám và những
sắc thái của màu nâu, nó không phân biệt rỏ với dác Cây.
Những hạt thẳng .
Gỗ Cây Quăng Alangium
chinense mềm và có trọng lượng riêng đặc biệt (0% độ ẩm humidité) là khoảng
0,49.
▪ Tĩ trọng của gỗ Cây Quăng
Alangium chinense của Á Châu thay đổi rộng rãi từ 440 đến 4100 kg / m³ ở độ ẩm
15%, nó khô ngoài không khí tốt không, hoạt động tốt, uốn cong dễ dàng và có
một kết quả cuối cùng tốt đẹp.
▪ Gỗ Cây Quăng Alangium chinense không bền và không được sử dụng cho
những mục đích bên ngoài, trong đặc biệt
là khi tiếp xúc với đất .
● Thành
phần hóa học :
▪ Những
căn hành
Cây Quăng Alangium chinense chứa :
- venoterpine,
- dl-anabasine.
▪ Những lá Cây Quăng Alangium chinense chứa :
- β-amyrin acetate,
- β-sitosterol,
- 1,8-cineole,
- β-thujene,
- eugenol methyl ether,
- α-terpineol,
- α-pinene,
- triacontanol.
▪ Từ
những phần đoạn tan trong nước của những lá
sấy khô của Cây Quăng Alangium chinense, 3 thành phần glycosides mới được tìm
thấy :
- alcool benzylique β-D-glucopyranosyl- (1 → 2) - [β-D-xylopyranosyl-
(1 → 6)] - β-D-glucopyranoside,
- 2'-O-β-D-glucopyranosylsalicin,
- và 2'-O-β-D-glucopyranosyl-6'-O-β-D-xylopyranosylsalicin
đã được
phân lập cùng với 7 glycosides được biết.
Những
cấu trúc của những thành phần hợp chất mới đã được xác định bởi phương tiện
quang phổ spectroscopiques và những
phương tiện hóa học chimiques.
( Glycosides của benzyl và
salicyl rượu từ Alangium chinense
Itoh A, Tanahashi T,
Nagakura N, Inoue K, Kuwajima H, Wu HX)
Đặc tính trị liệu :
▪ Cây
Quăng Alangium chinense này được phổ biến trong sử dụng ở những tiệm thảo dược
ở Tàu, nơi đây nó được xem như 1 trong 50 thảo dược cơ bản.
▪ Những
rễ và những thân Cây Quăng Alangium chinense là :
- một thuốc bổ máu tonique
du sang,
- thuốc tống hơi carminatives,
- và ngừa thai contraception.
▪ Cây
Quăng Alangium chinense được sử dụng trong chữa trị :
- những bệnh thấp khớp rhumatismes,
- tê (ở đầu ngón tay hoặc chân ) engourdissements,
- những tổn thương do chấn thương lésions traumatiques,
- những vết thương
loét plaies,
- những vết rắn cắn morsures
de serpent .
▪ Một
nước nấu sắc décoction của những chồi lá được cho là :
- một thuốc bổ tonique
.
▪ Một
bột nhão pâte của rễ Cây Quăng Alangium chinense được áp
dụng ở những vùng chung quanh xương bị trật khớp os disloqués để giúp chỉnh khớp trở lại bình thường.
▪ Chồi nẩy mầm, vỏ rễ, và nguyên cây của Cây Quăng Alangium chinense tất cả đều được
sử dụng trong y học.
▪ Thành
phần anabasin alcaloïde được phân
lập từ rễ của Cây Quăng Alangium
chinense, tác
dụng đáng kể trên :
- thần kinh cơ neuromusculaire
gây ra hiệu
quả ngăn chận trên hoành cách mạc phrénique
của chuột bị cô lập, chuẫn bị cho :
- một màng chắn thần kinh nerveuses-diaphragme,
và cũng
cho thấy có một hiệu quả :
- khử cực dépolarisation
trên cơ bắp sartorius
của ếch bị cô lập..( cơ sarcorius là
một cơ bắp dài nhất của người hoặc ếch, chạy dọc theo chiều dài của dùi …)
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Trong
y học với căn bản thảo dược của Hồ nam Hunan,
Tàu. Cây Quăng Alangium chinense được sử dụng cho :
- những vết rắn cắn morsures
de serpent,
- sự tuần hoàn circulation,
- ngừa thai contraception,
- cầm máu hémostase,
- tê engourdissement,
- thuốc độc poison,
- những bệnh thấp khớp rhumatismes,
- và những vết thương blessures.
▪ Rễ, vỏ, và những nhánh lá Cây Quăng Alangium chinense
được sử dụng trong y học truyền thống Phi
Châu.
Bột của rễ Cây Quăng Alangium chinense được sử
dụng để chữa trị :
- những đau đầu maux
de tête.
Rễ và lá Cây Quăng Alangium chinense nấu sắc décoction được sử dụng để chữa
trị :
- đau dạ dày douleur
d'estomac,
- và như tẩy xổ purgatif.
Một
nước nấu sắc décoction của cành lá Cây Quăng Alangium chinense,
uống để chữa trị :
- bệnh tâm thần maladie
mentale.
▪ Trong
RD Congo, ngâm vỏ Cây Quăng Alangium
chinense được sử dụng để chữa trị :
- những bệnh ngoài da maladies
de la peau,
- và bệnh tượng bì hay
da voi elephantiasis.
Nghiên cứu :
▪ Trong nghiên cứu, trích xuất trong nước và
thành phần anabasine của Cây Quăng
Alangium chinense có thể :
- thư giản détendre một cách đáng kể cơ của thỏ,
chó, chuột rat và chuột souris.
▪ .Thành phần anabasine được phân lập từ Cây Quăng Alangium chinense, với tiêm
nhanh vào tĩnh mạch intraveineuse, có thể :
- nhanh chóng gia tăng
huyết áp pression sanguine,
- và gây ra một rối loạn nhịp tim arythmie cardiaque của mèo .
▪ .Thành phần anabasine có thể ức chế:
- trung tâm hô hấp centre respiratoire của thân não tronc
cérébral,
và với một liều lớn của anabasine sẽ gây ra :
- một suy hô hấp dépression respiratoire,
- hoặc làm ngưng arrêter.
Hiệu quả xấu và rủi
ro :
Lưu ý :
- Dùng
uống không nên lạm dụng quá mức.
- Không
sử dụng cho những người già và tàn tật.
Ứng dụng :
● Những sử dụng khác :
▪ Trong
Phi Châu Afrique, gỗ Cây Quăng
Alangium chinense được sử dụng cho những điêu khắc và những bao kiếm và bao
dao.
Nó cũng
được sử dụng trong những đồ trang sức ở tay.
▪ Gỗ
Cây Quăng Alangium chinense được sử dụng ở Châu Á trong xây cất đà nhà, sàn
nhà, những vật dụng nội thất, đồ mộc, …v…v..
▪ Cây
Quăng Alangium chinense được trồng trong những hàng rào sống và dọc theo ranh
giới nông trại.
Thực phẩm và biến chế :
▪ Những
hoa sản xuất mật, thu thập mật bởi những con ong
▪ Trong những con nhọng RD Congo được nuôi bằng những lá, và
được thu hoạch để làm thức ăn sau khi chiên hoặc luộc chín.
Nguyễn thanh Vân
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire