Arrow-root
Dictame - Marante
Cây Huỳnh tinh -
Mì tinh
Maranta arundinacea L.
Marantaceae
Đại cương :
Củ mì tinh có vùng gọi huỳnh tinh, arrow-root, marante, dictame
hay cỏ mũi tên, tên khoa học gọi Maranta
arundinacea là một thực vật thuộc họ Marantaceae, mà người ta tìm thấy chủ
yếu ở Châu Mỹ nhiệt đới.
Hệ thống rể cạn, có dạng hình mũi
tên, màu vàng nhạt, phủ đầy những vảy mỏng. Những lá hình thuẩn thon ellip, với
ngọn lá đầu cùn. Những bông hoa nhỏ màu trắng, hiếm khi thấy, hình ống và mang
cập hoa hợp nhau thành chùm thưa.
Cây huỳnh tinh được trồng như là
những loại cây kiễng trong nhà hay trong những nhà kính, dưới ánh sáng sinh
động, dịu. Để có một kết quả tốt nhất, cây được trồng trên đất pha tổng hợp
giửa đất- than bùn- đất sét. Hố trồng phải thật rộng và thật sâu. Huỳnh tinh
phải được tưới phun thường trên lá.
Cây huỳnh tinh được xem như một
trong những cây « làm hết ô nhiễm »,
một số hóa chất ô nhiễm được cây hấp thụ được tìm thấy chủ yếu formaldéhyde, do
đó mà nó rất có hiệu quả.
Tại đảo Réunion và đảo Maurice, tên
đã được đổi là « rouroute ».
Tinh chất
lấy từ rể huỳnh tinh, một loại bột có thể sử dụng
- phụ gia thực phẫm (
làm đặc thực phẫm ),
- thành phần căn bản của
bánh ngọt hay mứt kẹo ( như kẹo bonbons rouroute ).
- điều chĩnh chức năng
của ruột trong trường hợp bị tiêu chảy.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật : Bụi cao 0,5 – 0,7 m, thẳng, láng, thân thảo
sống hằng niên, rất cứng, nhánh phân đôi, tất cả cùng dạng, củ thon dài, nhọn,
có vảy mỏng bao, nạc trắng, chứa nhiều bột. Căn hành nằm dước mặt đất
phát triển tăng trường, đỉnh ngọn trồi ra khỏi mặt đất và cho ra một cây mới.
Lá có phiến thon dài, gân lá song
hành, mặt dưới có ít lông, cuống dài trên 7 cm, có phần vàng ở trên, bẹ dài,
Chùm ở chót, hoa nhỏ, rời rạc, một vài hoa, trắng,
dài khoảng 2 cm, có cuống, noản sào hạ, lá đài 3, nhọn, cánh hoa bên trong dính
thành ống, phân chia 4 hay 6 không đều, 1 tiểu nhụy, to như cánh hoa. Chỉ 1 vành
hoa, không đều.
Nang 1 hột, hình tam giác duy nhật,
hột có tử y vàng đỏ.
Tinh bột
được trích từ căn hành không quá 1 năm tuổi. Căn hành được để vào cối giả
nhuyễn, khuấy với nước sạch, những xơ được vớt ra bằng tayvà rây nhuyễn, dung
dịch nước bột lỏng như sữa được để lắng
xuống đáy vật chứa, kế đó chắt nước để ráo. Thêm và lần hai nước sạch và khuấy
đều, để lắng chắt nước cho ráo. Sau đó tinh bột
được phơi khô trên những tấm trải bằng vải hay bằng nylon …dưới nắng mặt
trời. Tránh bụi, côn trùng, săn sóc thật kỹ.
Sản lượng
của tinh bột tính khoảng 1/5 khối lượng thô của những căn hành. Tinh bột phải trắng không mùi và không vị khó chịu, và khi tinh bột trở nên ẫm mốc thì phải bỏ.
Tinh
bột phải hoàn toàn khô. Tinh bột trở nên nhẹ và trơn láng khi tay chà vào. Chỉ
quan sát vào kính hiển vi những hạt tinh bột cần thiết để biết chính xác an
toàn tinh khiết.
Tinh
bột khoai tây pomme de terre tương ứng trong kỹ nghệ hóa học và phẫm chất dinh
dưởng, đôi khi được thay thế, nhưng hương vị hơi khó chịu, và một thữ nghiệm
với acide chlohydrique sẽ cho ra một mùi như mùi đậu haricots vert.
Bột huỳnh
tinh thường dùng đơn giản để làm những thức ăn tráng miệng, bánh hay ăn bột
trắng thêm đường.
Bộ phận sử dụng :
Tinh bột khô, bột lấy từ thân rể.
Thành phận hóa học và dược chất :
Củ huỳnh tinh gồm : theo
JW McDonald, căn hành huỳnh tinh gồm :
- 27% tinh bột,
- 63% nước ,
- 1.56% albumin,
- 4.10% đường ,
- gomme ( keo ) v…v….,
- 0,26 % chất béo,
- 2,82 % chất xơ,
- và 1.23% tro.
Da của củ huỳnh tinh có chứa một
chất đắng và chất nhựa, người ta loại bỏ bằng cách cắt gọt trong quá trình tạo
ra tinh bột gọi là bột huỳnh tinh hay bột mì tinh trong bài này tôi chỉ định
danh « bột huỳnh tinh » còn tên “mì tinh” để tránh nhầm lẫn với bột tapioca,
tinh chất bột mì trích từ củ khoai mì.
Theo sự công bố chánh thức, theo Pereira,
hạt tinh bột ít khi có dạng hình chữ nhật, hơi hình trứng thuôn dài, hoặc đột
xuất lồi lõm, kính thước từ 10 đến 70 micron đường kinh. Quan sát dưới kính
hiển vi điện tử một lát thật mõng, một hilium tròn có những khe nứt thẳng “linéaire”
hay hình sao “stellaire”
Đặc tính trị liệu :
► Đặc
tính thực phẫm :
Bột
huỳnh tinh có đặc tính và được sử dụng :
- Chế
độ ăn kiêng diététique, tiêu hóa đặc biệt cho trẻ sơ sinh và người cao tuổi (
không chất gluten ).
- Năng
lượng, gồm 80 % đường chậm ( sucres lents ) ( là loại đường có chỉ số đường
trong máu glycémie dưới 55 ).
- Nấu
ăn, thêm vào những nước sauces, là tác nhân làm sauce trở nên đặc, mịn và nhẹ.
► Đặc
tính y học :
- tiêu hóa digeste,
- chống lại sự acide hóa dạ dày combat l'acidité gastrique
- đau bụng tiêu chảy coliques.
- chống tiêu chảy Anti-diarrhétique,
- dể dàng tái hấp thu nước,
- chống nôn mửa Anti-vomitif.
► Đặc tính chữa bệnh :
- chống tiêu chảy anti-diarrhéique
- giảm đau antalgique
- chống nôn mửa anti-vomitive
- chống bệnh thấp khớp anti-rhumatismale
► Đặc
tính mỹ phẩm :
- xoa dịu apaisant
- hóa sẹo lành vết thương cicatrisant,
- chống lại nội cơ thể quá nóng contre échauffements,
- chứng chóc lỡ eczéma,
- kích ứng đau ngứa.
► Hoạt động và sử dụng y học :
● Huỳnh tinh là một chất dinh dưởng và được sử dụng trong chế độ ăn uống thoải mái và không gây cãm gíác bị kích ứng trong thức ăn trong :
- một số bệnh mãn tính,
- trong thời gian nghĩ dưởng khi qua một cơn sốt,
- trong những sự kích ứng trong ống tiêu hóa,
- những cơ quan nội tạng hô hấp phổi,
- hay trong hệ đường tiểu.
- và thích ứng rất tốt đối với trẻ sơ sinh, cung cấp thay thế sửa mẹ khi cần.
● Huỳnh tinh có thể đưa ra dưới những dạng khác nhau như (giống thạch) jelly, những thứ gia vị với đường, nước ép chanh ……
● Bột khoai tây đôi khi người ta dùng để thay thế bột huỳnh tinh, nhưng nó không phù hợp vì gây ra chất chua acide. Huỳnh tinh tốt cao hơn tất cả các loại bột, ngoại trừ bột khoai mì. Chất đông của nó có hương vị đặc biệt, và ít biến đổi tạo acide trong dạ dày, và thường thường thích hợp đối với trẻ em hơn tất cả thứ khác, ngoại trừ bột khoai mì.
Huỳnh tinh làm cho chất đông trở nên cứng, thường thường theo dân gian 2 hoặc 3 gr bột huỳnh tinh, đun sôi với 1 lít nước hoặc sữa và thêm gia vị theo ý nếu muốn.
● Giá trị : Huỳnh tinh là vật liệu chủ yếu để :
- dể dàng cho sự tiêu hóa,
- một chế độ ăn uống dinh dưởng cho thời kỳ phục hồi dưởng
bệnh,
- đặc biệt là sự rối loạn tiêu hóa,
- có đặc tính như chất làm dịu đau.
► Theo
tĩ lệ một muỗng canh vơí ½ lít sữa, người ta phải chuẩn bị để tránh sản phẩm bị
« óc trâu », ban đầu với một ít nước hoặc sữa khuấy đểu sau đó thêm phần còn
lại đun sôi. Với những loại nước ép khác như chanh, dung dịch nước thơm, có thể
thêm vào sau nếu đậm đặc, để có thể thực hiện một thức ăn phù hợp cho trẻ sơ
sinh tốt hơn các thực phẩm có những tinh bột khác.
Người ta còn cho rằng, những căn hành nghiển
nát còn sử dụng cho các :
- vết thương của những tên độc ( ở các bộ lạc còn dùng cung
tên ),
- những độc vật như bò cạp, nhện độc đen cắn,
- và làm ngửng hoại tử ( hoại tử là nguyên nhân của sự tắc nghẽn động mạch, tắc mạch, bị sốc,
nhiễm trùng hay tiếp xúc với điều kiện cực lạnh, một thời gian kéo dài, hoặc
làm chậm lưu thông máu….),
- Dung dịch ép tươi, pha trộn với nước, được cho là có tác
dụng « thuốc giải độc », dùng trong
nội tạng, giải trừ những độc tố thực vật,
Hiệu quả xấu và rủi
ro :
Với liều lượng được đề nghị, không phải là xấu của củ
huỳnh tinh được biết. Tuy nhiên để có một cây gọi là dược thảo hiện nay, người
ta nghiên cứu, một sự cần thiết cho những hiệu quả lâu dài.
Cây huỳnh tinh vì lý do thiếu sự nghiên cứu về y học đầy
đủ, nên những trẻ em, những phụ nữ có thai hay cho con bú, những người đang mắc
bệnh gan hay bệnh thận khi sử dụng phải với tất cả sự cẩn thận. Hoặc bị nôn mửa
kéo dài, hoặc bị tiêu chảy nghiêm trọng cho những người sống trong tình trạng
mất mước. Những người này phải uống thật nhiều nước để lấy lại cân bằng chất
lỏng trong cơ thể ( 6 hoặc 8 ly / ngày nếu có thể ).
Khi ói
mửa hay tiêu chảy kéo dài hơn 3 ngày hoặc tình trạng này đi kèm theo những
triệu chứng khác như đau hoặc sốt phải đi Bác sỉ ngay.
Ứng dụng :
Theo kinh
nghiệm dân gian :
- Căn hành được sản xuất bột huỳnh
tinh.
- Sửa soạn : đun nấu 2 – 3 muỗng
canh bột của rể huỳnh tinh trong 1 lít nước, thêm hương vị với mật ong hay
chanh hay bấy kỳ loại nước ép trái cây nào theo khẩu vị.
- Ở Antilles, những rể được sử dụng
như thuốc dán đấp lên vết thương
nhiễm độc và những trường hợp khác.
- Nghiền nhuyễn rể như thạch cao áp
dụng vào những vùng bị côn trùng đốt hay nhện cắn.
- Nước ép tươi được dùng như một
chất giải độc chống lại độc chất của thực vật.
- Được sử dụng làm dịu dạ dày và
như một đơn thuốc chống lại với tiêu chảy, có thể do hàm lượng tinh bột trong
hệ ruột cao.
- Tác nhân chống vi trùng trên mầm
gây bệnh nguồn gốc thực phẩm : Nghiên cứu cho thấy trích chất “nước trà”
của huỳnh tinh ở nồng độ 10 % có tác dụng ức chế mạnh vi khuẩn đây là tác nhân gây bệnh gram dương và gram âm thữ
nghiệm.
Nguyễn
thanh Vân