Tâm sự

Tâm sự

samedi 28 novembre 2015

Lúa Gạo - Paddy - Riz

Paddy - Riz
Lúa gạo
Oryza sativa L.
Poaceae ( Graminae )
Đại cương :
Cây Lúa gạo Oryza sativa, thường được gọi là gạo RIZ ở những nước ở Châu Á  Tiếng gọi là Paddy gọi là LÚA,
Cây Lúa Oryza sativa là một nhóm cỏ thuộc họ graminae ( Poaceae ) với một nhiễm thể genome của 430 Mb gồm 12 nhiễm sắc thể. Lúa nổi tiếng là dễ sửa đổi về mặt di truyền và là một mô hình cơ quan của sinh học ngủ cốc.
Lúa là một thực vật hằng niên với nhiều thân mọc chụm lại có đốt hoặc những thân từ 2 đến 10 thân, dài, bộ phận bên dưới trôi nổi trong nước hoặc nằm phủ trong nước ( trường hợp lúa nổi ở miền Đồng Tháp ) với những rễ ở những nút đốt, và đứng thẳng ở phần còn lại trên không, ngọn tỏa ra mang trên ngọn những gié hoa về sau thành hạt, có khuynh hướng phủ xuống khi hạt nặng.
Phần lớn chúng ta hình dung rằng, Cây Lúa là một thực vật mọc những vùng đất ẫm ướt ngập nước nên có tên là ruộng rizières, và điều này là hình thức phổ biến nhất. Tuy nhiên cũng có những lúa mọc trên đất khô và những giống khác mọc và phát phát triển hoàn toàn chìm ngập trong nước đó là điển hình của giống lúa nổi mọc ở vùng  Đồng tháp Việt Nam, trong những mùa nước nổi mực nước lên đến đâu thì lúa tăng trưởng đến đó nên gọi là « lúa nổi ».
Cây Lúa Gạo lý tưởng thích ứng với những điều kiện nhiệt đới và cận nhiệt đới, đánh dấu bởi lượng nước mưa theo mùa, nhưng nó phát triển ở độ cao 45 ° Bắc và ngày nay được trồng ở tất cả những lục địa ngoại trừ Nam cực Antarctique.
▪ Nguồn  gốc của sự thuần hóa :
Những cuộc tranh luận trên nguồn gốc của sự thuần hóa của Cây Lúa là nhiều.
Trong năm 2011, những bằng chứng di truyền cho thấy rằng tất cả những dạng của Cây Lúa Gạo Á Châu, cả indica và japonica, căn nguyên chỉ một thuần hóa xảy ra 8,200-13,500 năm trước trong Tàu của Cây Lúa hoang dả Oryza rufipogon.
Một nghiên cứu năm 2012, nhờ bản đồ biến đổi di truyền gen của lúa, đã chỉ ra rằng sự thuần hóa của lúa xảy ra trong vùng thung lủng sông Dương tử trong Tàu.
Từ Đông Á, Cây Lúa Gạo được phân bố lan truyền sang miền Nam và Đông Nam Á. Trong nghiên cứu, quan điểm thường được chấp nhận, dựa trên những bằng chứng khảo cổ archéologiques, là Lúa Gạo lần đầu tiên được thuần hóa trong những vùng của thung lủng sông Dương Tử ở bên Tàu.
Thời gian chính xác của lần đầu thuần hóa không được biết, nhưng tùy theo sự ước tính của đồng hồ phân tử « horloge moléculaire », thời gian được ước tính vào khoảng 8200 đến 13500 năm trước đây. Điều này phù hợp với những tài liệu khảo cổ đã biết về chủ đề này.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
● Cơ quan dinh dưởng :
▪ Rễ có một hệ thống rễ chùm .
Vào lúc bắt đầu của sự nẩy mầm, rễ đầu tiên nhỏ, có những lông hút, rễ bắt đầu phân nhánh ngay từ khi nó đạt đến khoảng 2-3 cm chiều dài, bắt đầu hình thành những rễ chính của Cây lúa. Đời sống của rễ Lúa rất ngắn. Đặc biệt là khi đạt đến 15 cm trong đất có rất nhiều rễ con. Những rễ thứ cấp phát triển trong sự tăng trưởng của Cây.
▪ Thân :
Khởi thủy của thân là thời điểm của sự nẩy mầm là một mầm đầu tiên trở thành thân tigelle. Nó được bao bọc lấy phôi bằng một màng màu nhạt để bảo vệ lấy chồi coléoptile
đầu tiên xuất hiện sau khi màng coléoptile, có dạng hình trụ. Trưởng thành, chiều cao của thân tính từ mực mặt đất, có nghĩa là từ cổ đến đỉnh ngọn của những gié hoa.
Thân Cây Lúa được chia thành :
Đốt Entre-nœud khoảng giữa 2 nút  :
- ngắn bên dưới,
- lớn hơn đến ngọn.
- giữa đốt cho những thân thứ cấp, kế tam cấp ….hình thành những đâm chồi tẻ nhánh của Cây Lúa, đạt đến một độ cao tối đa trong thời gian cho ra hoa và mang trên ngọn một gié hoa, ( đốt cuối cùng bên trên dernier entre-nœud )
" Đốt, giữa 2 nút entre-nœuds
Một chùm Cây lúa có từ 3 đến 60 thân, có thể đạt đến 50 cm đến 1,5 m thay đổi tùy theo giống Lúa.
 Màu sắc của Cây Lúa Gạo thay đổi theo giai đoạn tăng trưởng của Cây, và cuối cùng khi trổ  hoa.
▪ Chồi phụ talles :
Ở bộ phận bên dưới của thân chánh và bên dưới của mỗi lá, tìm thấy một chồi,  bình thường nảy sanh cho một thân thứ cấp, hoặc một chồi ở gần gốc Cây talle.
Những chồi phụ talle bên cạnh gốc cho ra một thân tam cấp, tứ cấp ….Tất cả những nụ chồi phát triển hợp lại thành một bụi lúa .
Việc cấy lại những cây lúa non ( cấy lúa ), cung cấp tối đa những thân cây lúa thụ.
Những Cây lúa già, giới hạn cho những chồi phụ talles.
▪ Lá :
Một thân cây Lúa Gạo cung cấp cho sự tăng trưởng từ 10 đến 20 lá nhưng chỉ có 5 đến 10 lá còn tồn tại và những lá khác khô dần dần theo sự tăng trưởng của cây .
Lá cuối cùng trước chùm gié hoa được gọi là cờ  “ lá chùm gié hoa ”.
Những cơ quan chính của cơ quan lá là : phiến lá, bẹ bao lấy thân, được tách riêng bởi một mép lá ligule và một vành tai auricule. Những rộng khoảng 8 đến 15 mm và 30 cm đến 1 m dài, thay đổi theo loại variété.
Những cơ quan sinh sản :
▪ Chùm hoa panicule :
Chùm hoa dài từ 10 đến 40 cm. Sự mô tả và nhận dạng của một giống Lúa căn cứ trên hình thái của chùm gié hoa panicule. Kích thước của nó được giới hạn bởi những đốt của cờ “ lá chùm hoa, ở phần bên dưới và bởi hạt cuối cùng bên trên.
Mang những chùm hoa được xác định khi trưởng thành, khép kín hay mở ra hoặc dày đặc hay lỏng lẻo.
▪ Gié con épillet :
Số lượng thay đổi và có thể đạt đến thường thì cả trăm, được gọi là hạt và được gắn vào cuống chùm nhỏ racémules bởi một cuống nhỏ pédicelle.
Gié con mang 2 mài glumes ở phía dưới. Những hạt bản thân nó được bao bọc bởi 2 mài nhỏ cho một trấu của lúa trong lúc xay xát. Ở đỉnh ngọn của gié con épillet, tập hợp 2 mài con hình thành một mỏ bec hoặc đỉnh nhọn apex.
Lông cứng barbe là do kéo dài của gân trung tâm của mài nhỏ bên dưới.
Độ dày của mài nhỏ cũng đóng vai trò bảo vệ chống lại những côn trùng xâm nhập vào những hạt ngủ cốc .
▪ Hoa :
Mỗi gié con có một hoa. Nó tự thụ phấn, có nghĩa là trong một hoa có cả cơ quan sinh dục đực và cái .
- Những cơ quan đực gồm 6 nhụy đực.
- Những cơ quan sinh dục cái bởi bầu noãn thượng, 2 nuốm có lông .
Thời gian thụ phấn gọi là kỳ hoa nở cho phấn hoa thoát ra anthèse. Sự phát triển của bầu noãn ovaire, sau khi thụ tinh fécondation, phát sinh ra hạt gồm có quả thóc caryopse với những vỏ bì téguments và phôi embryon.
▪ Hạt hoặc Lúa paddy :
Đây là những trái thu được sau khi thụ tinh của bầu noãn. Những hạt Lúa cấu thành bởi :
- những lớp bao  : mài glumes và mài nhỏ glumelles
- những lớp vỏ, bì téguments
- quả thóc caryopse hoặc phôi nhũ albumen chứa tinh bột amidon
- và phôi embryon.
Hạt Gạo nâu, là hạt loại bỏ lớp bao bọc bên ngoài, sau khi bốc vỏ décorticage.
Hạt Gạo trắng là những hạt loại bỏ những lớp vỏ bì téguments sau khi xay xát làm trắng blanchissage. Chính những vỏ bì cho những cám son và và bột farine.
Bộ phận sử dụng :
Toàn Cây, và những thành phần của hạt.
Thành phần hóa học và dược chất :
● Thành phần hóa học :
▪ Gạo lứt Oryza sativa hay gạo lột vỏ, chứa :
- đường glucides (78,1%),
- chất đạm protéines,
- những nguyên tố khoáng minéraux ( sodium Na, potassium K, magnésium Mg, calcium Ca, sắt Fe, soufre S và chlore Cl ),
- và chất béo graisse.
Gạo Oryza sativa lột vỏ ( lứt ) cũng chứa :
- vitamine,
- thiamine,
- và acide nicotinique,
- acide phytique,
- vitamine E,
- γ-oryzanol,
- acide γ-amino-butyrique,
- acide linoléique,
- acide oléique,
- và acide palmitique.
- và một số lớn nguyên tố vi lượng dưới dạng vết, bao gồm :
Kẽm Zn, aluminium Al, nickel Ni, iode I,  Fluoride F.
Cám son của Lúa gạo Oryza sativa chứa :
 - đến 25% dầu béo (Anon, 1966).
Glucotrin đã được phân lập từ những Cây Lúa gạo Oryza sativa.
Lúa gạo Oryza sativa cũng chứa 2 chất ức chế của sự tăng trưởng của lactone diterpène :
- momilactone A,
- và momilactone-B (Rastogi và Mehrotra, 1993).
▪ Giá trị dinh dưởng của Lúa gạo Oryza sativa và những sản phẩm nghiền nhuyễn của nó, hiện diện trong bảng Rutgers.
Lúa gạo Oryza sativa nâu ( lứt ) chất đạm chứa trong g/16g  N :
- 4,6 g isoleucine,
- 7,9 g leucine,
- 3,6 g lysine,
- 5,1 g phenylalanine,
- 4,7 g tyrosine,
- 5,3 g tổng số sulfur amino acids,
- 2,8 g methionine,
- 3,6 g threonine,
- 1,4 g tryptophane,
- và 6,4 g valine (Rutger, 1981).
● Phân tích hóa học của sinh khối biomasse nhiên liệu :
▪ Phân tích 62 loại sinh khối biomasse cho giá trị của nhiệt lượng calorifique, Jenkins và Ebeling (1985) đã ghi nhận một sự lan truyền từ 16,14 đến 15,27MJ / kg, so :
- với 13,76 cho rơm rạ gạo phơi ngoài sương gió,
- với 23,28 MJ / kg cho những hố mận khô pruneaux.
▪ Trên cơ sở phần trăm % của DM ( Dry Matter nguyên liệu khô ),
Những vỏ hạt Lúa gạo Oryza sativa chứa :
- 65,47 % thành phần dễ bay hơi volatil,
- 17,86 %  tro,
- 16,67 % carbone cố định,
- 40,96 % carbone,
- 4,30 % H,
- 35,86 % O,
- 0,40 % N,
- 0,02 % S,
- 0,12 % Cl,
- và dư lượng không xác định.
● Dinh dưởng nutrition :
Mặc dù lúa mì cung cấp nhiều hơn chất đạm protéines cho mỗi gramme, chất đạm của Lúa gạo Oryza sativa dễ dàng xử lý bởi cơ thể, nó « sinh khả dụng bioavailable » nhiều hơn.
Lúa Gạo Oryza sativa là một thực phẩm không « hoàn toàn complet », nhưng nó lại rất tốt cho nguồn của :
- chất đạm protéines,
- và đường glucides.
▪ Tuy nhiên, trong quá trình xay xát, nghiền, phần lớn của những giá trị dinh dường valeur nutritionnelle bị mất đi.
▪ Trong đặc biệt, một chế độ ăn uống quá phụ thuộc vào « gạo trắng xay » dường như không cung cấp đủ số lượng vitamine B1 và có thể dẫn đến một bệnh gọi là :
- bệnh tê phù béribéri.
Nó làm cho :
- xương quá mềm,
- và gjiảm cường kiện bắp cơ  tonus musculaire.
▪ Những loại Lúa Gạo khác nhau của sản lượng chế biến rất đa dạng của cấu hình dinh dưởng nutritionnels. Lúa gạo Oryza sativa nâu ( lứt ) giữ hầu hết của những :
- vitamines,
- và những nguyên tố khoáng minéraux,
nhưng thường được xem như là kém hấp dẫn hơn do những kết cấu của nó ( không sáng, bóng, trắng và đẹp mắt ).
Lúa gạo Oryza sativa sấy riz étuvé là tốt hơn gạo trắng thường, quá trình dẫn đến một số nhất định của những vitamines và những nguyên tố khoáng minéraux từ những lớp bên ngoài vào lõi bên trong noyau intene.
Lúa gạo Oryza sativa rất bổ dưởng nutritif và là thực phẩm rất tốt cho những người điều dưởng convalescence và thậm chí cho những trẻ sơ sinh và những em bé không như ở bột mì nó không có những chất gây dị ứng allergènes.
Đặc tính trị liệu :
Lúa gạo Oryza sativa là rất tốt, nó rất là phổ biến hầu hết trên tất cả mọi nơi và mọi giới, nhưng Lúa gạo Oryza sativa lại là ít thành phần dinh dưởng hơn tất cả mọi hạt ngủ cốc khác.
● Cơ chế hóa học của Lúa Gạo được xem như là tiêu biểu :
▪ Đưòng glucides :
Chất này chiếm khoảng 80% của trọng lượng hạt Lúa gạo Oryza sativa. những hydrates de carbone là thành phần chủ yếu dưới dạng tinh bột amidon.
▪ Chất đạm protéines :
Trong số những ngủ cốc, Lúa gạo Oryza sativa chứa hàm lượng thấp nhất thành phần chất đạm protéines dưới 7% trên tổng số những nội dung của nó. Những chất đạm protéines của Lúa gạo Oryza sativa bị thiếu mất một số nhất định những acides amines thiết yếu, như là lysinetryptophane, lý do mà tại sao mà người ta khuyến khích pha trộn Lúa gạo Oryza sativa với những loại đậu légumineuses khác bởi vì chúng có xu hướng chứa dồi dào những acides amines.
Bởi sự kết hợp này, những acides amines thiết yếu thiếu vắng trong Lúa gạo Oryza sativa được thay thế bởi của những loài họ đậu để hoàn thành những chất đạm protéines.
Ngoài ra, Lúa gạo Oryza sativa không chứa gliadine, một lý do tại sao Gạo lại thích hợp cho những người mắc bệnh :
- loét dạ dày coeliaque.
▪ Vitamines :
Lúa gạo Oryza sativa nguyên hạt Riz complet chứa những số lượng đáng kể của :
- vitamine B1 và E.
Điều này không có ở những trường hợp của Gạo trắng, bởi vì nó chứa rất ít hàm lượng của vitamines. Đây là lý do tại sao sự tiêu thụ Gạo nguyên hạt và Gạo sấy riz étuvé được khuyến khích hơn là Lúa gạo Oryza sativa trắng.
Gạo nguyên Riz complet chứa những số lượng đáng kể của những :
- vitamine B1, B2, B6, E và thậm chí niacine.
Lúa gạo Oryza sativa không chứa :
- vitamine C và A,
theo như trường hợp kết hợp với những ngủ cốc khác.
▪ Nguyên tố khoáng Minerals :
Lúa gạo Oryza sativa chứa số lượng hợp lý của :
- potassium K, magnésium Mg, sắt Fe, và calcium Ca.
Tuy nhiên, nó chỉ chứa rất ít số lượng muối sodium Na, thật vậy, trong số những thực phẩm với số lượng thấp nhất của muối sodium Na. Đây là lý do trong đó nó thích hợp với những người mắc bệnh :
- huyết áp cao hypertension,
- hoặc bệnh tim mạch cardiovasculaires, nói chung.
Lúa gạo Oryza sativa, là một thực phẩm, mà dường như nghèo trong thuật ngử dinh dưởng nutrition.
● Giá trị dược liệu :
▪ Tuy nhiên, Gạo vẫn còn có một giá trị lớn về mặt dược liệu médicinales, mặc dù nó thiếu hụt trong những thành phần dinh dưởng thiết yếu nutriments essentiels.
Dưới đây là một vài chỉ định thuốc như :
- Tiêu chảy Diarrhée :
Lúa gạo Oryza sativa là thực phẩm lý tưởng để làm ngưng tiêu chảy diarrhée. Hiệu quả của nó là làm se thắt astringent cũng như tính dễ dàng tiêu hóa digestion, Lúa gạo Oryza sativa là thực phẩm đặc biệt để phục hồi của những niêm mạc ruột muqueuse intestinale sau khi trải qua đau bụng tiêu chảy colite.
▪ Trong trường hợp sử dụng để chữa trị :
- tiêu chảy diarrhée,
một Gạo nấu với một ít dầumuối pha trộn với trái táo tây pomme được đề nghị.
Cho những trẻ sơ sinh nourrissons, sau khi bất kỳ một bệnh tiêu chảy diarrhée, nước Gạo được đề nghị.
Nước gạo có thể được chế biến Gạo trong nước đun sôi cho đến khi nó bắt đầu được phá vở thành từng mảnh ( cháo nhừ ), Gạo được lọc, và dung dịch lỏng là kết quả của nước Gạo Riz, người ta có thể thêm mùi thơm bằng cách thêm vào một ít chanh citron để cho có hương vị tốt hơn.
Nó nên cho trẻ sơ sinh uống như một chất lỏng duy nhất sau khi bị tiêu chảy diarrhée để cho uống vào một lượng lớn để chống mất nước ( dịch bù nước ) réhydratation.
Nước gạo cung cấp :
- tinh bột amidon,
- và potassium K,
giúp làm ngưng tiêu chảy diarrhée.
- Cholestérol dư thừa :
Như người ta đã biết, một số nhất định acides mật acides biliaires được sử dụng bởi gan để sản xuất ra cholestérol. Rất may, những chất xơ thực phẩm hiện diện trong Lúa gạo Oryza sativa nguyên hạt làm ngưng sự hấp thụ của những acides mật acides biliaires trong ruột intestin.
Ngoài ra, Lúa gạo Oryza sativa hầu như không chứa một chất béo nào, cũng như một cholestérol, do đó đem lại rất nhiều lợi ích trong trường hợp có cholestérol dư thừa.
- Huyết áp cao Hypertension :
Sự tiêu thụ Lúa gạo Oryza sativa được khuyến cáo trong trường hợp :
- huyết áp cao hypertension,
do hàm lượng rất thấp của muối sodium Na hoặc không có.
Trên thực tế, muối sodium Na là một nguyên tố khoáng với một khả năng lớn để giữ nước, mà trong quá trình cơ thể giữ nước quá nhiều, là nguyên nhân của sự gia tăng khối lượng máu và hậu quả là :
- huyết áp động mạch pression artérielle.
Nó là nguyên tắc đơn giản, lượng muối sodium Na cho vào qua nhiều, nguy cơ của :
- sư tăng huyết áp hypertension,
và lượng thấp muối sodium, thì nguy cơ tăng huyết áp hypertension ít hơn.
- Acide urique dư thừa :
Trong trường lượng acide urique quá dư thừa trong máu, thường biểu hiện những bệnh :
- thống phong goutte,
- hoặc viêm khớp arthrite,
sự tiêu thụ Lúa gạo Oryza sativa được đề nghị, bởi vì Gạo có chứa rất thấp số lượng chất đạm protéines, và có một hiệu quả kiềm hóa alcalimisant rất lớn.
- Bệnh tim mạch cardiaque :
Sự đề nghị tiêu thụ Lúa gạo Oryza sativa trong trường hợp :
- bệnh tim cardiaque
là đơn giản bởi vì nó có chứa ít hoặc không có muối sodium Na. Khi có một triệu chứng suy tim cardiaque, những chất lỏng được giữ lại trong những mô tissus và những thận reins không  loại trừ đủ lượng nước tiểu urine. Cũng như, sự tiêu thụ thức ăn giàu nguyên tố muối sodium Na thì không được khuyến cáo tất cả, bởi vì nó chỉ gây ra sự giữ nước thậm chí là nhiều hơn.
Đó là lý do chỉ những thức ăn với hàm lượng ít hoặc không của muối sodium Na, được khuyến khích.
- Chống oxy hòa Antioxydants :
Trong cám son của Lúa Gạo, hơn 70% của những thành phần có trong họ của vitamine E sẽ là những tocotriénols, một loại chống oxy hóa antioxydant.
Sự tiêu thụ của tocotriénols có một hiệu quả :
- giảm hạ cholestérol,
- và đặc tính chống ung bướu khối u antitumorales.
Người ta cũng tìm thấy :
- những oryzanols,
- và acide férulique,
là những thành phần hợp chất phénoliques. Hơn nữa, là chất chống oxy hóa antioxydant, nó góp phần vào một hiệu quả giảm hạ cholestérol hypocholestérolémiant cũng như ngăn ngừa những bệnh loét dạ dày ulcères gastriques.
Acide férulique đã chứng minh một khả năng :
- giảm áp xuất động mạch tension artérielle ở những động vật,
cũng như tĩ lệ mắc bệnh :
- ung thư miệng cancers oraux,
- và đại trực tràng colorectaux.
● Hành động và sự sử dụng thuốc .
▪ Sự tiêu thụ chánh của Lúa gạo Oryza sativa cũng là một chất thực phẩm, nhưng không bao giờ quên rằng sự tiêu thụ quan trọng và tiếp tục của những Gạo trắng, Gạo đánh bóng thương mại là dễ bị ảnh hưởng gây tổn hại cho sức khỏe.
▪ Những quốc gia mà Lúa gạo Oryza sativa là thức ăn căn bản, ăn Gạo không bốc vỏ ( thóc ) trong nguyên tắc nói chung, khi Gạo màu nâu nhạt và ít hấp dẫn đối với mắt, nhưng nhiều chất dinh dưởng cũng như rẻ tiền hơn.
▪ Không có phẩm chất nhuận trường laxatives, Gạo hình thành sáng bóng và dễ tiêu cho những người có xu hướng với :
- tiêu chảy diarrhée,
- hoặc với bệnh kiết lỵ dysenterie,
nhưng nó chứa ít muối potassium K và acides rau xanh hơn những khoai tây pommes de terre.
▪ Thức uống để lạnh boisson réfrigérant trong những bệnh :
- sốt fébriles,
- viêm inflammatoires,
- tiểu khó dysurie
- và những bệnh tương tự .
Gạo có thể làm chua với nước ép chanh và ngọt với đường.
Điều này cũng có thể được sử dụng để lau rữa ruột trong :
- những bệnh của đường ruột intestin.
▪  Bột gạo nhuyễn có thể được sử dụng như bột mì farine de blé, cho :
- viêm quầng érysipèle,
- phỏng cháy  brûlures,
- bỏng nước ébouillanté
Tinh bột có thể đuợc sử dụng trong y học và trong những phương cách khác ở vị trí của tinh bột mì amidon de blé.
Cám son của Lúa Gạo chứa một dầu 15-17%, và là một nguồn của vitamine B, được sử dụng như một phương cách phòng ngừa và chữa trị :
- bệnh tê phù béribéri.
▪ Những vỏ trấu của Lúa Gạo balles de riz đôi khi được sử dụng trong sản xuất :
- cellulose alpha tinh khiết,
- và furfural ( một chất lỏng không màu sử dụng để sản xuất nhựa tổng hợp được lấy ra bằng cách chưng cất cám )..
Rơm rạ của Lúa gạo Oryza sativa được sử dụng như một nguyên liệu lợp mái nhà toiture và nguyên liệu bao bì emballage, thức ăn gia súc fourrage, những phân bón engrais và nhiên liệu carburant.
▪ Những thử nghiệm lâm sàng clinique cho thấy rằng những trích xuất của Lúa gạo Oryza sativa nâu có thể có hiệu quả trong chữa trị :
- ung thư vú cancers du sein,
- và dạ dày estomac,
- và những thử nghiệm vẫn đang tiếp tục.
▪ Người ta nghĩ rằng, Lúa Gạo nâu có thể giúp những mức của :
- cholestérol trong máu ,
do đó có thể giúp ngăn ngừa :
- những bệnh tim cardiaques,
- và bệnh xơ cứng động mạch artériosclérose
trong số những bệnh khác.
Cũng nghĩ rằng Lúa Gạo nâu có thể giúp giảm :
- nguy cơ bệnh tiểu đường diabète loại 2,
▪ Gạo nâu  riz brun chứa những lượng quan trọng của sélénium Se, hỗ trợ trong :
- sự sửa chữa ADN trong những tế bào cellules,
- và có hành động chống oxy hóa antioxydantes.
Nó kiểm soát giảm :
- những triệu chứng bệnh suyễn asthme,
- và viêm inflammation,
- và đau nhức của bệnh viêm khớp dang thấp khớp polyarthrite rhumatoïde.
cũng có một số lượng lớn nguyên tố khoáng manganèse Mn trong Lúa Gạo nâu, điều này giúp :
- sự sản xuất kích thích tố nội tiết hormones,
và cũng có một hành động mạnh :
- chống oxy hóa antioxydantes.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Nước của Lúa gạo Oryza sativa được sử dụng như :
- nước rữa lavement.
▪ Gạo nếp riz gluant, dính được sử dụng để chữa trị :
- khó chịu dạ dày maux d'estomac,
- ợ nóng dạ dày brûlures d'estomac
- và không tiêu indigestion.
▪ Trích xuất của Lúa gạo Oryza sativa nâu được sử dụng trong chữa trị :
- mụn cóc verrues,
- những ung thư vú cancers du sein
- và dạ dày estomac.
cũng dùng cho :
- khó tiêu indigestion,
- buồn nôn nausées
- và tiêu chảy diarrhée.
▪ Ở Cambodge, những vỏ của Cây trưởng thành sử dụng để chữa trị :
- bệnh kiết lỵ dysenterie.
▪ Trong Malaisie, Lúa gạo Oryza sativa xanh đun sôi được sử dụng như :
- thuốc nhỏ mắt collyre,
- và viêm inflammation những mô của bên trong cơ thể .
▪ Trong Ấn Độ nước gạo được sử dụnh như thuốc mỡ để :
- chống lại chứng viêm sưng bề mặt da surfaces enflammées.
▪ Một nước nấu sắc décoction của Lúa gạo Oryza sativa, thường gọi là nước Gạo ricewater được đề nghị trong dược điển của Ấn Độ như là :
- một chất làm dịu rất tốt excellent adoucissant,
► Theo Hartwell (1967-1971),
▪ Những hạt Lúa gạo Oryza sativa được sử dụng trong y học truyền thống để chữa trị :
- những ung thư vú cancers du sein,
- chai cứng bụng estomac induration,
- ung bướu, khối u khác  tumeurs,
- và những mụn cóc verrues.
Được ghi nhận như là thuốc cho :
- giải độc antidote,
- khẩu vị apéritif,
- chất làm se thắt astringent,
- làm dịu adoucissant,
- lợi tiểu diurétique,
- tá dược excipient,
- thuốc diệt ấu trùng larvicide,
- chất làm lạnh réfrigérant,
- thuốc chữa trị bao tử stomachique,
- thuốc bổ tonique,
- và diệt giun sán vermifuge,
Lúa gạo Oryza sativa là một phương thuốc dân gian để chữa trị :
- những bệnh của bụng affections abdominales,
- bệnh tê phù  béribéri,
- bệnh ruột intestins,
- phỏng cháy brûlures,
- tiêu chảy diarrhée,
- kiết lỵ dysenterie,
- rối loạn tiêu hóa không tiêu dyspepsie,
- chảy máu cam épistaxis,
- sốt fièvre ,
- giun chỉ filariose,
- thông lượng, dòng chảy flux,
- nôn ra máu hématémèse,
- bệnh viêm inflammations,
- bệnh vàng da jaunisse,
- buồn nôn nausées,
- viêm mắt ophtalmie,
- bại liệt paralysie,
- bệnh trĩ piles,
- bặnh vải nến psoriasis,
- bệnh ngoài da maladies de la peau,
- vết thương loét plaies,
- sự vở mô lá lách splénose, ( kết quả của sự cấy và tăng trưởng của mô lá lách ở bụng ).
- khó chịu dạ dày maux d'estomac,
- và sưng gonflements (Duke và Wain, 1981).
► Theo Duke et Ayensu (1984),
▪ Những ngọn bông lúa Gạo được sử dụng cho :
- bệnh vàng da trong Tàu jaunisse.
Thân cây Lúa gạo Oryza sativa được sử dụng cho :
- điều kiện nhiều mật bilieux;
Tro Cây Lúa gạo Oryza sativa cho :
- những xả thải décharges,
- nhiễm khuẩn huyết sapraemia trong Malaisie; ( là một sinh vật hoại sinh ).
▪ Ngâm trong nước đun sôi infusion của rơm rạ Cây Lúa Gạo dùng cho :
- bệnh kiết lỵ dysenterie,
- bệnh thống phong goutte,
- và những bệnh thấp khớp rhumatismes.
Trấu của hạt Lúa gạo Oryza sativa được sử dụng để chữa trị :
- bệnh kiết lỵ dysenterie,
và được xem như thuốc bổ ở Tàu .
▪ Trong Tàu, những bánh Gạo được chiên trong mỡ con lạc đà  để chữa trị :
- những bệnh trĩ hémorroïdes,
nước Gạo được sử dụng để :
- thông lượng, dòng chảy flux,
- và những bệnh loét ulcères,
và áp dụng bên ngoài cơ thể của :
- bệnh thống phong goutte với tiêu poivre trong Malaisie.
▪ Gạo đun sôi được sử dụng để :
- chống bệnh than anthrax trong Malaisie,
và thuốc dán đắp cataplasmes trên :
- những ung bướu khối u bưng mũ tumeurs purulentes trong Đông Ấn Độ.
Rễ Cây Lúa gạo Oryza sativa được xem như :
- chất làm se thắt astringent,
- giảm hay ngăn chận đổ mồ hôi ( không khả năng đổ mồ hôi ) anhidrotique,
và nước nấu sắc décoction dùng cho :
- vô niệu anurie.
Mầm germe của hạt Cây Lúa gạo Oryza sativa được sử dụng cho :
- mất khẩu vị bữa ăn appétit,
- rối loạn tiêu hóa khó tiêu dyspepsie,
- sự sung mãn (đầy ) plénitude của bụng abdomen,
- và của lồng ngực poitrine,
- và yếu lá lách rate,
- và dạ dày estomac trong Tàu .
▪ Dung dịch kiềm thu được từ than của thân Cây Lúa gạo Oryza sativa ( Merang Indonésia ) được sử dụng như :
- lau, gội đầu lavage de cheveux,
và sử dụng bên trong cơ thể như :
- một thuốc phá thai abortif.
▪ Trong những đảo Philippines, trích xuất (tikitiki), giàu chất vitamine B1 (đồng nghĩa với vitamine antinévritique ), làm từ bột mài bóng của Gạo, được sử dụng trong chữa trị :
- bệnh tê phù béribéri trẻ em infantile,
- và suy dinh dưởng malnutrition ở những người lớn  
▪ Trong Java, những vitamines được ly trích và cung cấp như một thuốc viên ngậm (Reed, 1976).
Nghiên cứu :
● Chống phản vệ Anti anaphylactique :
Sự đánh giá của hiệu quả chống phản vệ anti-anaphylactiques ( một phản ứng dị ứng nghiêm trọng có thể đe dọa đến tính mạng ) của Cây Lúa Gạo Oryza sativa L. ở chuột.
Nghiên cứu cho thấy trích xuất của Cây Lúa Gạo Oryza sativa có một hoạt động chống phản vệ anti anaphylactique bởi sự cứ chế sự phóng thích của những phì đại tế bào mastocytes thực hiện trên cơ thể sinh vật sống in vivo và trong ống nghiệm in vitro.
● Bệnh tiều đường Diabète :
Một điều tra của những thực vật bản địa sử dụng như thực vật liệu pháp phytothérapies truyền thống để kiểm soát và chữa trị :
- bệnh tiểu đường diabète.
Có một sự phong phú của thực vật trong  y học dân gian :
- hạ đường máu hypoglycémiques.
Cây Lúa Gạo Oryza sativa là một trong những thực vật đó.
Trong điều tra, « Bột chống bệnh tiểu đường Antidiabétique Flour » được thu từ 6 cây trong những số lượng bằng nhau 2 kg cho mỗi cây :
Phần ngầm dưới đất được sấy khô của Cây Carotte Daucus dacota và những hạt của Cây  Lúa Gạo Oryza sativa, cây Pois chiche Cicer arietinum, Cây Lúa Đại mạch Hordeum vulgare, Cây Lúa mì Triticum aestivum và Bắp Zea mays. Trong một chế độ ăn uống cho bệnh tiểu đường diabète, bánh mì pain được pha trộn cho tiêu thụ ở mỗi buổi sáng với beurre sữa bò tươi trong 2 tháng.
● Bệnh suyễn  Asthme :
Hiệu quả của trích xuất Cây Lúa Gạo Oryza sativa trên sự tiến triển của viêm đường hô hấp inflammation des voies respiratoires và tu bổ remodelage trong mô hình động vật thí nghiệm của bệnh suyễn asthme :
Trích xuất éthanolique của Gạo đen có thể đóng vai trò trong sự suy giảm atténuation của sự tiến triển của bệnh viêm đường hô hấp inflammation des voies respiratoires và cho thấy một tiềm năng của Cây Lúa Gạo Oryza sativa trong sự ngăn ngừa và chữa trị bệnh suyễn asthme.
● Thủy phân đường Glucides trong ống nghiệm in vitro / đường máu glycémique và chỉ số Insuline  insulinémique Indices :
Nghiên cứu Gạo Hassawi ( Oryza sativa L ) cho thấy một GR ( glycémique index ) tương tự cho UBR ( Gạo Uncle Ben), mặc dù với một phản ứng insuline thấp.
Có một khác biệt trong RAG ( nhanh chóng sẳn có glucose rapidly available glucose ) và của SAG ( từ từ có glucose slowly available glucose). Những sự khác biệt có thể là quan trọng về mặt trao đổi chất biến dưởng métabolique và những kết quả trên bệnh tiểu đường diabète.
● Hiệu quả chữa trị :
Nghiên cứu đánh giá của quá trình chế biến trên Lúa gạo Oryza sativa. Một sự giảm của những nguyên tố khoáng xảy ra trong quá trình xay xát. Hàm lượng những nguyên tố khoáng giảm trong Gạo chế biến .
Những kết quả cho thấy sự xay xát nên được thiết kế để loại bỏ vỏ ngoài ( ngoại quả bì péricarpe, nhưng giữ lại những hàm lượng khác và nhiều lớp aleurone càng tốt. Aleurone là một chất đạm protéine dưới dạng hạt của phôi nhũ albumen của nhiều hạt )
Ứng dụng :
● Ứng dụng y học :
▪ Nước nấu sắc décoction của rễ và căn hành rhizomes sử dụng cho :
- vô niệu anurie.
▪ Nước nấu sắc décoction và thuốc dán đắp cataplasmes của bhạt là :
- chất làm mềm émollient.
▪ Thuốc dán đắp cataplasme của Gạo mềm, áp dụng ở lưngngực cho :
- bệnh ho toux,
- và viêm phế quản bronchite.
▪ Gạo, đun sôi, để ráo nước và nghiền nhuyễn như bột nhão pâte hoặc đúc thành viên và áp dụng trên :
- những mụn nhọt furoncles,
- những vết thương loét plaies,
- sưng phồng gonflements
- và những tình trạng không hoàn hảo của da imperfections de la peau.
Lúa gạo Oryza sativa sấy khô, nghiền thành bột nhuyễn sử dụng cho :
- những bệnh của da affections de la peau.
▪ Dung dịch kiềm từ gốc rơm rạ bị đốt cháy thành than, được xem như :
- hư thai hay trụy thai avortée.
● Những ứng dụng khác :
▪ Những gié hoa Cây Lúa gạo Oryza sativa được sấy khô được dùng trong :
- mỹ phẩm cosmétique,
- và kem đánh răng trong Tàu.
▪ Dầu huile và furfuran :
Dầu Gạo và furfural thu được từ cám thô của Gạo. Dầu của Cám Lúa gạo Oryza sativa được sử dụng như :
dầu ăn được, trong xà bong và chế tạo acides béo. Cũng được sử dụng trong những sản phẩm mỹ phẩm cosmétiques, những chất xơ tổng hợp, những chất tẩy rửa détergents và chất nhũ hóa émulsifiants.
▪ Cellulose :
Vỏ Gạo coques de riz được làm thành trong những sản phẩm của cellulose, như tơ nhân tạo rayonne.
▪ Gạo xay nhuyễn, nhiên liệu bởi sản phẩm của than tro cendres carboné là một nguồn của silicate de sodium, của xà bong, của bột màu ( sắc tố ) pigments, của than carbone.
▪ Nhiên liệu đốt combustible :
Trấu balles de riz được sử dụng như nghiên liệu đốt combustible.
▪ Giấy papier :
Rơm rạ paille de riz cũng có thể là một nguồn của giấy .
Được sử dụng trong những vật liệu thùng giấy và chế tạo giấy, đóng gói emballage và vật liệu xây dựng và như một nguyên liệu cách điện isolateur, hoặc cách nhiệt.
▪ Cũng được sử dụng trong chế tạo phân trộn, phân hữu cơ compost và những dẫn xuất chất hóa học dérivés chimiques.
▪ Chổi Balais :
Rơm rạ cũng được sử dụng trong chế tạo dụng ra những cây chổi quét nhà balais.
▪ Những tro của vỏ hạt Lúa Gạo cendres de coques được sử dụng để làm sạch những răng bị đổi màu dents décolorées.
▪ Bệnh tê phù Béribéri :
Bột mài bóng Gạo polissage du riz, cám son được ly trích và sử dụng như một nguồn rất là tốt của vitamine B để ngăn ngừa và chữa trị bệnh tê phù béribéri.
▪ Rơm rạ :
Rơm rạ, không có nghĩa là sản phẩm phế thải, nhưng là một chất sợi có lợi ích. Nó được bện xoắn thành những cây gậy để làm nhiên liệu đốt, thu hoạch và phơi khô như một thức ăn của gia súc trâu, bò ngựa …., bện thành những dây thừng, nón, giầy dép, thảm, giỏ và những thủ công khác thậm chí còn đúc thành những viên gạch cách nhiệt…..
Thực phẩm và biến chế :
▪ Những loại phổ biến hoặc tinh bột féculents được sử dụng trong nhiều món ăn, bánh, súp soupes, bánh ngọt pâtisseries, thức ăn điểm tâm petit déjeuner, và bột nhão tinh bột pâtes d'amidon, loại nếp glutineux, chứa một chất ngọt chứa một chất đưòng ở vị trí của tinh bột amidon, được sử dụng ở Phương Đông Orient với những mục đích đặc biệt như những bánh kẹo.
▪ Cây Lúa gạo Oryza sativa được trồng chủ yếu để cho hạt, nó cấu thành một phần quan trọng của thực phẩm trong một số nước, nhất là trong Châu Á Asie.
Những hạt rất giàu chất dinh dưởng khi nó không được xay xát đánh bóng.
▪ Ở Mỹ :
- 60% cuỉa sự tiêu thụ Quốc gia của Lúa Gạo đã đi vào dùng trong thực phẩm trực tiếp.
- 11% trong thực phẩm biến chế,
- và 29% trong sự sản xuất rượu bia bière trong những năm 1975 (Rutger, 1981).
Sự tiêu thụ của nguời Mỹ giữa 3 và 4 kg / năm, tăng từ 2,7 trong một vài năm trước đây ( cf >50 kg trong khẩu phần của Mỹ Latin ).
Bột Gạo :
Những hạt Lúa gạo Oryza sativa, cũng được nghiền nát và chế biến thành bột gạo được sử dụng để làm thành những bánh mặn như bánh xèo, bánh cống ….và những bánh ngọt…ngoài ra còn thêm vào những sản phẩm mỹ phẩm.
Trong phương pháp chế biến bột gạo, thường dân quê sử dụng bằng cối xay, ngâm gạo mềm ( tối thiểu 5 giờ, xay với nước, chứa trong một bao vải, sau đó bòng bằng cách đè lên với một vật nặng cho ra hết nước chỉ còn lại bột nhuyễn cuối cùng cắt nhỏ phơi khô để sử dụng về sau.
Hạt Gạo :
Người ta quen thuộc với cơm và nó đã gắn liền trong cuộc sống của dân tộc Việt và những dân tộc khác, đối với người Việt Nam, gạo là món ăn căn bản trong tất cả mọi lảnh vực thể chất cũng như tinh thần, trong những bữa ăn hằng ngày thuật ngữ « mâm cơm canh » dầu cho bữa ăn đạm bạc hay cầu kỳ cũng là cơm đứng đầu không thể thiếu. Trong những buổi lể đầu năm, hay trong những ngày giổ chén cơm cũng không thiếu để tỏ lòng thành kính đối với người đã khuất và thỉnh mời về để dùng cơm với gia đình.
Trong bữa ăn Cơm gạo là thành phần chủ yếu rồi sau đó kèm theo những món mặn và món canh hoặc món xào.
Cơm gạo có thể thay đổi hoặc gạo trắng, gạo lức, gạo nếp than, phương cách nấu tùy theo mỗi cá nhân, tùy theo người thích ăn nhão hay khô và cũng tùy theo gạo củ hay mới.
Nhưng trên nguyên tắc, đối với người bình dân, dân quê thì đo lường nước bằng lóng tay, theo kinh nghiệm, ( có thể lóng tay người dài người ngắn ), theo phương pháp đo lường thì 1phần gạo với 1,5 phần nước, sau lần đầu có thể gia giảm nước để hợp với khẩu vị cá nhân.
Đối với gạo lứt, theo kinh nghiệm của những nhà sinh hóa, nên ngâm gạo sau khi vo gạo khoảng ½ đến 1 ngày, mục đích cho những thành phần của hạt hoạt động cho ra những phân hóa tố, khi nấu sẽ có tác dụng cho sức khỏe tốt hơn.
▪ Cám Gạo :
Là một thành phần chứa rất nhiều vitamine B1, có thể chữa bệnh phù thủng. Trong thời gian ở tù, những chất dinh dưởng thiếu, vitamine thiếu, những người tù này phải xin lấy nước vo gạo để nấu uống để bổ sung vitamine B1. Nhưng trớ trêu thay, những nước cám này là nước cám của gạo mục, của người ta chôn từ bao nhiêu năm, trải qua ẫm độ, gạo đã bị thối hủy nên thành phần vitamine không còn mà sinh ra những chất độc, nên những nạn nhân này thay vì chữa bệnh lại thêm bệnh và cuối cùng hủy đi sinh mạng.
 

Nguyễn thanh Vân

Aucun commentaire: