Tâm sự

Tâm sự

samedi 22 juin 2013

Trái Huyền diệu - Thần kỳ - Fruit Miracle

Miracle Berry
Fruit Miracle
Trái Huyền diệu - Thần kỳ
Synsepalum dulcificum (Schumach.&Thonn.) Daniell
Sapotaceae
Đại cương :
Vào năm 1725, lần đầu tiên, nhà thám hiểm người Pháp Des Marchais khám phá, nhưng ông không có để lại tên cây hoặc mô tả thực vật đầy đủ.
Người Tây Phi thắc mắc nhưng không xác định và cũng không đặt tên loài thực vật này là gì, mãi đến giữa thế kỷ 19 mới đuợc xác định và xếp loại thực vật với tên khoa học là Synsepalum dulcificum, thuộc họ Sapotaceae có quan hệ với sapodilla (Manilkara zapota).
Trái Miracle «Trái Kỳ diệu hay huyền diệu » là một chuyển hướng mới ở nơi đây.
Cây Miracle không phải lầm lẫn với 2 cây khác đôi khi cũng được gọi là Miracle Kỳ diệu cũng được chia sẻ trong nhận thức hương vị, là cây Gymnema sylvestreThaumatococcus daniellii.
Cây Synsepalum dulcificum, cũng được biết như trái huyền diệu, là một cây với một quả mọng, khi ăn, sau đó biến đổi hương vị của những thực phẩm chua, đắng thành hương vị ngọt.
Hiệu ứng này do một hóa chất miraculine, được sử dụng trong thương mại như một chất thay thế đường.
Tên thông thường của loài này bao gồm quả nạt :
- miracle baie,
- baie miraculeuse,
- sweet berry,
Và ở Tây Phi, nơi nguồn gốc của loài gọi là :
- agbayun,
- Taami,
- asaa,
- và ledidi.
Ở Việt Nam sau khi du nhập tên được gọi do dịch nghĩa Fruit Miracle :
- Trái Huyền diệu,
- Trái Kỳ diệu,
- hay Trái Thần kỳ.
● Có 2 loài của giống synsepalum được mang tên “ trái Miracle ”
- Synsepalum dulcificum, có lá nhỏ hẹp và cây phát triển hơi chậm.
- Synsepalum subcordatum ( Trái Miracle lớn Giant Miracle Fruit ) lá rộng đa dạng và phát triển thành một cây nhỏ. Trái hơi lớn hơn Synsepalum dulcifilum, sản xuất nhiều đặc biệt trong năm đầu tiên. Với tuổi thọ cây ăn quả thì cả hai cây như nhau.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Cây tiểu mộc bụi, hoặc cây nhỏ, vùng nhiệt đới, lá không rụng, khoảng 1,8 m đến 4,5 m cao, dễ nhận bởi dạng của cây tàn lá rậm, hình kim tự tháp, màu xanh lục đậm, láng cũng như màu đỏ tươi, với những hoa trắng và những quả nạt sản phẩm hình quả banh.
Vỏ cây có cấu trúc mịn và màu sắc thay đổi từ màu xám nhạt đến nâu trung bình.
Lá, lá thuôn dài, hình mũi giáo, bìa lá nguyên đều, bóng láng không lông sậm, Lá có dạng ellip, với phần dưới hình cái nêm cunéiforme, dài khoảng 5 đến 10 cm và rộng 2 – 3 cm mượt, được hợp thành nhóm ở đầu của nhánh, dạng lá có lông cũng được biết đến.
Chồi, khoảng 1-2 cm dài với phần bên dưới màu nâu và màu kem trắng màu của cánh hoa.
Hoa, thật nhỏ khoảng 0,6 cm, hoa trắng kem, khuynh hướng chĩa xuống phía dưới, màu trắng nâu bên dưới, trắng kem bên trên màu màu của cánh hoa. Những hoa nỡ mở ra một phần, để lộ nướm và nhụy hoa, đây là đặc tính của họ Sapotaceae.
Như tuổi của hoa và bầu noản trưởng thành, cánh hoa trở nên màu đỏ xẫm và mở rộng hơn để lộ những bộ phận bên trong.
Trái, trái nhỏ màu đỏ tươi, quả nạt dạng ellip thuôn dài, khoảng 2 đến 3 cm dài và chứa chỉ 1 hột bên trong. Màu sắc trái Miracle không thay đổi nhiều trong suốt thời gian tồn tại.
Mặc dù chính bản thân trái không ngọt, khi một trái khi ăn tiếp xúc với vị giác của lưỡi và bên trong miệng sẽ có một hiệu quả khác thường của trái.
Bộ phận sử dụng :
Trái.
Thành phần hóa học và dược chất :
Thành phần hoạt chất : Phân tử hoạt động là một :
- glycoprotéine, với một chuổi carbohydrates, gọi là Miraculine.
▪ Những chất béo lipides của nạt trái huyền diệu Miracle bao gồm :
- 10,15 % của trọng lượng khô.
▪ Những chất béo trung tính :
- phospholipides,
- và glycolipides,
đã được phân lập bởi phương pháp phân tích sắc ký chromatographie trên acide silicique và thành phần acides béo của mỗi phần đoạn đã được xác định.
Những chất béo không xà phòng hóa saponifiables, chiếm đến 1,6% của chất béo lipides trung tính đã được phân lập ra nhiều phần đoạn bởi phương pháp phân tích sắc ký trên lớp mỏng và những thành phần của mỗi phân tích do kết hợp phương pháp sắc ký hơi - khối lượng quang phổ kế ( gas chromatography-mas spectrometry ).
▪ Phần đoạn của hydrocarbures có chứa chuổi n-alcanes từ C17 đến C32 với những C29C31, những thành viên hiện diện với số lượng tương đối lớn.
● Chất miraculine là một glycoprotéine, ly trích từ cây trái Huyền diệu “fruit miracle”, một cây tiểu mộc có nguồn gốc ở Afrique de l'Ouest (Synsepalum dulcificum ou Richadella dulcifica).
Chất miraculine tự nó không có ngọt sucrée, nhưng vào lưỡi của con người, một khi lưỡi tiếp xúc với miraculine, cảm nhận hương vị của những thực phẩm chua bình thường, như là những trái cây của họ cam quýt, chuyển biến thành hương vị rất ngọt dịu cho đến 2 giờ sau đó.
Trái huyền diệu miracle này đã được sử dụng ở Tây Phi để cải thiện hương vị của những thức ăn chua .
« Như trái cây tự nó không có hương vị, chức năng có thể thay đổi của trái này đã được xem như một huyền diệu ».
Hoạt chất, đã được phân lập bởi Giáo sư Kenzo Kurihara (栗原 堅三, Kurihara Kenzo?), một nghiên cứu gia Nhật Bản, đã đặc tên chất này là miraculine theo tính năng của “ Trái Huyền diệu ” “ fruit miracle ”, khi ông xuất bản công trình nghiên cứu của ông trên tạp chí Khoa học vào năm 1968.
Đặc tính trị liệu :
● Cơ chế hoạt động của Miraculine :
Trái nạt Miracle, tự nó chứa hàm lượng đường thấp và hương vị ngọt nhẹ.
● Trái chứa những phân tử glycoprotéine, với một chuổi đuôi glucidiques theo sau, gọi là Miraculine.
Khi phần nạt của trái được ăn vào, những phân tử này liên kết với những thụ thể vị giác của lưỡi, gây ra sự biến đổi, trung hòa tính acide của các loại thực phẩm có vị chua thành vị ngọt.
● Trong khi nguyên nhân chính xác của sự thay đổi này không được rỏ.
▪ Có giả thuyết giải thích :
- Ở pH trung tính, miraculine liên kết và ức chế những thụ thể vị giác.
- nhưng ở pH thấp ( do kết quả của sự tiêu hóa thức ăn acide ), miraculine liên kết với những hạt hạ nguyên tử ( subatomique ) proton và trở nên có khả năng kích hoạt những “ thụ thể ngọt ” trên lưỡi, dẫn đến nhận thức một hương vị ngọt ngào.
Hiệu ứng này kéo dài cho đến khi chất đạm protéine được rữa sạch bằng nước bọt  ( có khi lên đến 60 phút ).
▪ Giả thuyết khác cho rằng đây là hiệu quả có thể là nguyên nhân do chức năng của miraculine bằng cách bóp méo dạng các thụ thể của hương vị ngọt “ để mà nó trở thành nhạy cảm với hương vị chua acide, thay thế chổ của đường và những đồ ngọt khác ”. Hiệu quả này có thể kéo dài trong khoảng 15 đến 30 phút.
▪ Sau thời gian tác dụng này, các thụ thể trở lại chức năng bình thường để lại cho người dùng một hương vị hơi đắng do những chất còn lại không được chuyển hóa.
▪ Theo những nhà nghiên cứu giải thích rằng, một chất đạm protéine đặc biệt của quả nạt trái Miracle, chất miraculine, tập trung vào những thụ thể vị giác và gia tăng sự cảm nhận hương vị ngọt được tìm thấy trên lưỡi.
▪ Khi được kết hợp với thực phẩm chua ( acide ), khả năng liên kết của chất miraculine với các thụ thể sẻ cao hơn khoảng 1 triệu lần hơn so với aspartame  và 100 triệu lần cao hơn so với đường.
▪ Như một thành phần thực phẩm, trái Miracle này, hiệu quả hơn nếu được kết hợp với những thực phẩm rất chua có nghĩa là có tính acide cao, nhưng nó không thể thay thế đường hay aspartame, theo những nhà nghiên cứu.
Nó cũng có thể làm dịu ngọt nước chanh limonade, chẳng hạn, nhưng không ở cà phê.

● Trái Miracle synsepalum dulcificum với bệnh tiểu đường :

Diabétique là một bệnh trạng y học trong đó đối tượng mức độ đường glucose tăng cao trong máu dẫn đến những vấn đề liên quan nghiêm trọng đến sức khỏe và làm suy thoái tình trạng lối sống và chế độ thực phẩm ăn uống.
▪ Trái Miracle hành động như một đơn thuốc rất tốt cho những người mắc phải :
- bệnh tiểu đường diabète.
Những nhà nghiên cứu và những phương pháp thử nghiệm khác nhau thông qua khoa học ứng dụng, kỹ thuật sinh học và phân tích của con người và của động vật trong phòng thí nghiệm, đã cho thấy trái Miracle được dùng để chữa trị :
- đích thực giảm tình trạng bệnh tiểu đường diabète này.
▪ Những nhà nghiên cứu thực hiện trên những phòng thí nghiệm khác nhau trên thế giới, người ta cũng đã nhận định rằng trái Miracle Synsepalum dulcificum, một loài thực vật được biết như một cây Miracle mang những trái có chứa những chất đạm đặc biệt miraculine có thể mang đến những sự thay đổi.
Chất này liên kết với các thụ thể cảm giác vị giác trên lưỡi và biến các thức ăn hương vị chua và ngọt đắng, một tính chất có thể đặt để cho tình trạng của bệnh tiểu đường này.
▪ Những người mắc bệnh tiểu đường, trong chế độ ăn uống phải giảm :
- đường glucide,
- những chất béo lipides bảo hòa saturées,
- và acides béo rám hoặc mỡ thắng,
bắt đầu một nếp sống mới khác với cuộc sống bình thường. Cái khó khăn được đưa ra là họ phải dựa vào một thực phẩm được xem như nhạt nhẽo, hương vị không đậm đà. Đây là một trở ngại lớn cho những trẻ em bị bệnh. Trong những trường hợp này, trái Miracle hóa ra là một vị cứu tinh.
▪ Chất hóa học miraculine có thể biến đổi ngay cả những mận ngâm ( prune marinées ) và mực ( calmar ), vị chua giấm trở thành như thể cà chua ngào đường ( tomate sucrée ). Ít đường hoặc không có đường, đủ cho tất cả các loại thức ăn.
● Trái Miracle, bắt đầu được sử dụng để làm dịu các thưốc đắng mà không ảnh hưởng đến tính thuốc, đặc biệt là thuốc chữa trị ung thư.
▪ Đặc tính duy nhất và độc đáo của trái Miracle đã được sử dụng để kích thích khẩu vị bữa ăn cho những người đang trong thời kỳ hóa trị liệu để giúp loại bỏ những mùi vị kim loại của hóa chất thuốc và trả lại sự ham muốn và sự thèm ăn.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Ở Tây Phi, nơi mà nguồn gốc của loài Fruit Miracle, bột của trái được dùng để làm ngọt rượu cây cọ palme.
Trong lịch sữ, Fruit Miracle được dùng để cải thiện hương vị của bánh mì bắp trở chua.
▪ Người ta đã nỗ lực thực hiện để tạo ra một chất làm ngọt thương mại từ trái cây, với một ý tưởng phát triển cho bệnh nhân mắc phải bệnh tiểu đường diabète.
Những người trồng trái Miracle cũng ghi nhận nhu cầu của những bệnh nhân bị bệnh ung thư, bởi vì trái Miracle làm trung hòa hương vị kim loại trong miệng có thể là một trong những tác dụng phụ của hóa trị liệu chimiothérapie.
Xác nhận này chưa được nghiên cứu một cách khoa học, mặc dù ở cuối năm 2008, một bác sỉ chuyên khoa ở  Trung tâm y tế Mount Sinai ở Miami, Floride, đã bắt đầu nghiên cứu, và vào tháng ba năm 2009, đã nộp trình đơn thuốc mới cho cục quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ.
▪ Ở Nhật Bản, trái Miracle được phổ biến cho những bệnh nhân mắc phải :
- bệnh tiểu đường diabète,
- và những người ăn kiêng diète.
▪ Thời gian bảo quản trái Miracle tươi chỉ 2-3 ngày.
Bởi vì chất miraculine biến tính bởi nhiệt sưởi, cho nên bột nhảo pâte của nạt trái Miracle phải được bảo quản nơi không có sưởi ấm để dùng trong thương mại.
- Bột khô được chế biến bằng cách phun sương lyophilisée được cung cấp dưới dạng hạt granulés hoặc viên comprimés, và có tuổi thọ được 10 đến 18 tháng .
Nghiên cứu :
● Sự chỉnh sửa kỳ diệu modification Miraculeuse :
▪ Câu hỏi thường đặt ra – là tự nhiên :
Những nguyên nhân nào của sự kỳ diệu ? cũng như mong muốn tận dụng lợi ích của trái nạt này cho thương mại đã cho ra nhiều nghiên cứu thí nghiệm khoa học / hy vọng, cũng đã cố gắng tìm hiểu những bí mật .
Phải mất rất nhiều năm/ nhiều nghiên cứu và tích lủy nhiều kiến thức và nhiều thủ tục khoa học sâu rộng, để cuối cùng cô lập được những nguyên tắc.
- Vào đầu năm 1960, những nhà sản xuất bột ngọt Ac'cent của International Minerals và  Công ty hóa chất Chemical Corporation / ( không có hương vị ngon ? ) Trải qua nhiều năm nổ lực cố gắng phân lập hoạt chất chánh yếu, nhưng hoàn toàn thất bại  không thành công.
Người ta cảm thấy rằng những lượng lớn hơn trái tươi để tiếp tục thực hiện công trình của họ.
- Vào năm 1964, những nhà nghiên cứu tuyên bố / “ phẩm chất ngọt ngào của những trái Miracle là tối thượng ” …. (và) sự mong muốn của họ nhiều hơn bất cứ những chất ngọt tự nhiên hoặc tổng hợp đã được biết đến từ trước .
Ứng dụng :
● Từ khi trái Miracle được dùng để làm ngọt một số vị thuốc đắng. Trái cũng phục hồi lại khẩu vị bữa ăn ngon miệng cho những bệnh nhân ung thư mà phương pháp điều trị hóa trị đã để lại một hương vị kim loại làm khó chịu trong miệng.
Trái Miracle có thể là một thay thế cho đường cho người mắc bệnh tiểu đường diabète, cho phép họ có được một thực phẩm hương vị ngọt mà họ mong muốn, mà không có tác dụng phụ có hại.
● Trái nạt Miracle được dùng tươi, tại nguồn gốc của cây Miracle, những người Phi Châu đôi khi dùng để cải thiện mùi vị của những thức ăn cũ.
Những trái Miracle được bắt đầu nghiên cứu như nguồn có thể làm ngọt thức ăn tự nhiên.
Kinh doanh thương mại :
▪ Trên thực tế, đặc tính tuyệt vời này đã được sử dụng trên toàn thế giới và đặc biệt ở Nhật Bản, trong những quán cà phê ở Tokyo được gọi là “ Fruit Miracle Café ” “ Quán Càphê Trái Thần kỳ ”, tọa lạc tại khu vục Ikebukuro của  thành phố Namja Tokyo.
- Tất cả những quy định trong thực đơn đều phải có năng lượng calorie thấp của chế độ ăn uống. Họ cho rằng những thực phẩm trong quán của họ đều có năng lượng thấp dưới 100 calo, thậm chí những món ăn tráng miệng như bánh ngọt, kem ..v…v.. đều đã được nhấn mạnh trong thực đơn, cân nhắc rằng nó phải dưới 100 calories.
- Những thực phẩm, món ăn có một vị khó chịu, và đắng trong nghĩa thực sự bản chất của nó, nhưng nhờ có “ trái huyền diệu Fruit Miracle ” và những “ viên trái Miracle ” được gọi là Frooties Miracle, nó là một phần trong thực đơn, được tìm thấy ở cách làm, trong danh sách mời của họ để khách ăn thưởng thức nhà bếp thực hiện mà không bao giờ làm sẳn trước.
- Sự đột phá này đã đến vài năm trước, khi một nhà nhập cảng tìm được cách đông lạnh những quả mọng khô để giử những đặc tính gây tạo vị ngọt. Một trái duy nhất có thể có hiệu quả trong khoảng 30 phút, đó là thời gian quá đủ để tận hưởng những giây phút trong quán cà phê.
Một số bánh kẹo gồm kem chanh, sirop mận….
- Trong thực tế, chủ quán càphe cho biết họ hy vọng sẽ phục vụ “ Trà ” và “ cà phê ” cho những phuụ nữ trẻ nhỏ và những người làm việc, luôn tìm kiếm những thức ăn năng lượng thấp.

Nguyễn thanh Vân