Jack In The Pulpit
- Dragonroot
Rễ rồng 3 lá
Arisaema
triphyllum - (L.)Schott.
Araceae
Đại cương :
Danh pháp đồng nghĩa :
- Arum triphyllum
Linnaeus, Sp. Pl. 2: 965. 1753;
- Arisaema acuminatum
Small;
- Arisaema atrorubens
(Aiton) Blume;
- Arisaema polymorphum
(Buckley) Chapman;
- Arisaema pusillum
(Peck) Nash;
- Arisaema quinatum
(Nuttall) Schott;
- Arisaema stewardsonii
Britton;
▪ Danh pháp thông thường :
-
Jack-in-the-Pulpit, Dragonroot, Bog onion, Brown dragon, navet indien, Wake
robin or Wild turnip)
Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum, được biết dưới
tên thông thường khác Jack-in-the-pulpit “Jack
dans la chaire”, như “ củ cải trắng ấn độ navets indiens ” vì phẩm chất của cột buồng spadice ăn được. Cây có màu sắc rất đẹp và những trái rất thú
vị .
▪ Cây có nguồn gốc từ miền đông Bắc
Mỹ Amérique du Nord và thường gặp
trong những khu rừng ẩm và cây bụi từ Nouvelle-Écosse phía tây đến Minnesota và phía nam
đến miền nam Floride.
▪ Môi
trường sống :
Jack-dans-la-chaire
Cây Rễ rồng
3 lá Arisaema triphyllum ưa
thích phát triển trong một phần ánh nắng mặt trời đến bóng râm hoàn toàn trong
những khu rừng ẩm, chấp nhận của những mức độ ẩm của vùng sinh thái có độ ẩm
trung bình đến môi trường có độ ẩm khô.
Cây thích hợp với những đất nhẹ
(đất cát sableux) và trung bình (đất
mùn limoneux) và thích những đất
thoát nước tốt. Có độ pH thích hợp : đất acides, trung bình neutres và kiềm basiques (alcalins).
Nó có thể mọc trong bóng râm (rừng
sâu ) bán râm (rừng sáng ) hoặc không bóng râm.
Nó thích những đất ẩm.
Ánh nắng mặt trời được bao phủ bởi
những đám mây trắng lốm đốm, được ưa thích trong thời kỳ ra hoa.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật :
Địa thực vật, Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum là một thực vật
sống lâu năm, không bình thường dễ nhận tăng
trưởng chậm khoảng 0,6 m trên khoảng cách 0,5 m, thân mịn và xanh, toàn Cây có
thể cao từ 30 đến 100 cm.
Hệ thống rễ gồm có một thân củ,
tròn, phẳng, phần bên trên có bao tuniqué
như củ hành tây, phần bên dưới lớn hơn và có nạt thịt, từ đây cho ra nhiều sợi
dài rễ thứ cấp màu trắng trong một vòng viền mặt trên, đo được đến 5 cm dài và
2 cm rộng, mặt dưới thân củ được bao phủ bởi một lớp biểu bì màu sậm, lỏng lẻo,
xếp nếp nhăn.
◦ Cây phát triển từ một căn hành rhizome tròn, phẳng thường gọi là thân
củ «corme».
◦ Gần mặt đất, thân trung tâm phát
triển 1 hoặc 2 lá trên một thân cuống rất dài tròn.
Những
chồi mới nổi lên tương tự với những gié épis
bao phủ bởi một lớp vỏ bao bảo vệ.
Lá, của
Cây hoang này đặc biệt là lá kép trong một sự thiết kế. Thường chính xác 3 lá
phụ nhưng 2 có thể xảy ra.
Lá trung
bình có xu hướng là một dạng kim cương, hình bầu dục hầu hết là lá nguyên, đỉnh
nhọn láng, màu trắng xanh đục, nhạt ở mặt dưới, trở nên lục lam, không bóng,
khoảng 8-15 cm dài và 3-7 cm rộng, 2 lá phụ bên đôi khi vẫn cục, lá phụ đầu
ngọn lớn hơn 2 lá phụ bên, phát triển trên một chân cuống lá dài pétiole và một cuống hoa to pédoncule ( hoặc thân) với một hoa duy
nhất ở đỉnh ngọn.
Cuống
lá và cuống hoa phát triển trực tiếp từ thân củ corme, cuống hoa phát triển thành một vỏ bọc và ngắn hơn những
cuống lá, vỏ bọc có cả 2 mặt trơn và láng, và màu sắc thay đổi từ màu xanh lá
cây đến màu xanh lục nhạt hoặc màu xanh nâu.
Phát hoa, có
dạng không đều, có thể đạt đến 8 cm dài, bao gồm một cột gồm những hoa nhỏ spadice ở trung tâm ( về sau phát triển
thành buồng ), giữ những hoa nhỏ chung quanh của một ống, cung cấp bởi một cái
mũ hoặc cái bẹ mo spathe trên bên
trên.
Những
hoa được gắn nằm ở bên dưới của cột buồng spadice
(“jack”) ( khi trưởng thành sẽ cho ra một buồng trái với những quả mọng ),
phủ đầy những hoa nhỏ của cả 2 phái.
Bẹ mo spathe hành động như một cái bẫy ấm "piège à bouilloire" côn trùng thụ
phấn insectes pollinisateurs.
◦ Những
Cây đực có một lỗ nhỏ bên dưới cùng của
bẹ mo spathe, những côn trùng xâm
nhập từ trên đỉnh và được thu hút bởi ánh sánh ( và phấn hoa ) lỗ nhỏ bên dưới
nơi đây chúng thoát đi ra.
◦ Những
Cây cái không có đường thoát, vì vậy một
khi côn trùng xâm nhập từ trên cao, một cơ hội nhỏ để chúng có thể thoát
ra. (Ewy chưa công bố ).
Jack-in-the-Pulpit
thường đơn phái monoïque, nhưng một
số cây đơn phái và nó có khả năng thay đổi giới tính.
Là một loài đơn phái biệt chu, có
nghĩa là Cây có hoa đực và hoa cái ở trên 2 gốc khác nhau ( những hoa đơn độc
hoặc đực hoặc cái, nhưng chỉ có một phái trên một thân cây, vì vậy mà cả hai
cây đực và cái phải được trồng nếu những hạt là cần thiết phải lấy ) và được
thụ phần bởi những loài ruồi. Cây không tự thụ phấn autofertile.
Hoa, những hoa này, không
vành hoa cũng không đài hoa .
Hoa màu
xanh trắng nhạt đến xanh đỏ nhạt đo được khoảng từ 7-8 cm dài và 5 cm đường
kính bao gồm một cột buồng spadice và
một bẹ mo spathe.
- cột
buồng spadice màu xanh sáng có dạng
hình ống. Cột buồng spadice, nằm bên
trong của bẹ mo spathe, có dạng cái
chày, ngắn hơn bẹ mo spathe, tròn ở
đáy, màu xanh lá cây, tím, đen thu hẹp lại trong một cổ hẹp ở đáy nơi đây nó
được bao quanh bởi những tiểu nhụy hoặc bầu noãn.
- Bẹ mo
spathe bao chung quanh cột buồng spadice, phần bên trên của bẹ mo spathe phát triển phía sau của cột buồng
spadice và uốn cong trên nó cung cấp
một cáo mũ bảo vệ và cột buồng spadice chỉ lộ ra bộ phận bên trên của nó
( "Jack" của hoa ).
Bẹ mo spathe này màu sắc thay đổi từ xanh lá
cây nhạt đến xanh đỏ nhạt hơi có rãnh, thường có sọc trắng hoặc đỏ tím, hình
bầu dục, đỉnh nhọn, cuốn lại thành một ống đến tận bên dưới, phẳng và uốn cong
lên như một cái mui xe, màu sắc thay đổi bên trong, màu xanh lá cây, màu tím
đậm, đen hoặc có sọc xanh nhạt trên một nền sậm.
Những
hoa gắn trên một cột buồng spadice,
tập hợp bên dưới của spadice hoặc bẹ
mo spathe.
Những
phần bên trên của cột buồng spadice khô
héo với bẹ mo spathe, trong khi những
bầu noãn phát triển thành một buồng đầy rậm những quả mọng tươi sáng của màu
sắc rực rỡ.
▪ Trong
những Cây thụ, nó được hiện diện của những bầu noãn tròn và rất nhiều, mỗi bầu
noãn có một vòi nhụy, trong phần khô héo, bên dưới của nó được bao phủ bởi
những sợi hình chóp và nạt thịt mang mỗi sợi từ 2 đến 4 bao phần vòng tròn.
- những
hoa đực nằm bên trên cột buồng,
- những
hoa cái trên phân nửa bên dưới của cột buồng spadice, nơi đây nó được che khuất bởi bẹ mo bao chung quanh.
Những
hoa đực có nhiều nhụy đực, trong khi những hoa cái chỉ có 1 nhụy hoa pistil.
Trái, có
dạng tập hợp thành nhóm như một gié, với nhiều quả mọng nhỏ màu xanh khi còn
non và trở nên đỏ tươi khi trưởng thành chín ăn được.
Mỗi
trái thường chứa từ 1 đến 5 hạt kích thước khoảng 5 mm, đôi khi cũng có chỉ 1
hạt.
Hạt, màu
trắng đến màu nâu nhạt, thường với những cạnh phẳng lõm hơi dẹt và môt điểm
nhọn ngắn ở trên cùng và mặt bên dưới tròn.
● Sự sinh sản reproduction : Lưỡng
tính Hermaphrodisme : Lựa chọn phái
tính sexe
Jack-in-the-pulpits Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum có khả năng thay
đổi phái tính giữa những mùa tăng trưởng. Người ta nghĩ rằng điều này phụ thuộc
vào kích thước của Cây.
Nếu một Cây cụ thể là một Cây cái
trong một mùa tăng trưởng và có thể sản xuất ra nhiều hạt, nó có khả năng cho
rằng Cây này không thể tồn trữ nhiều năng lượng cho mùa tăng trưởng tiếp theo
sau trong một thân củ corme sống ngầm
dưới đất bởi vì hầu hết những nguồn của nó đã cô động dành cho sự sinh sản reproduction.
▪ Mùa tăng trưởng tiếp theo, cùng một
Cây này sẽ có một thành công cho sự sinh sản tốt hơn bằng cách là một Cây đực
không trổ hoa.
Với sự tích trử năng lượng ít hơn,
Cây có thể cô động một phần lớn năng lượng énergie
của nó cho sự tăng trưởng và sự sản xuất phấn hoa pollen, điều này sẽ cần thiết tiêu dùng ít năng lượng énergie hơn cho sự sản xuất hạt giống.
Như đã được chứng minh, một Cây có
tỹ lệ sinh sản tốt hơn reproduction
(RS) khi là những Cây lớn hơn đây là những Cây cái và những Cây nhỏ hơn là
những Cây đực (Policansky, 1981).
Bộ phận sử dụng :
Rễ ( thân củ ) sấy thật
khô,
▪ Nó được thu hoạch vào đầu mùa xuân và được sấy khô bảo quản để sử
dụng về sau.
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum chứa :
- những tinh thể oxalate de calcium
trong tất cả những bộ phận, và do
sự tiêu thụ này của nguyên liệu thô dẫn đến một cảm giác phỏng cháy mạnh brûlure puissante.
▪ Những hoạt chất hóa học chánh
trong Cây Jack-in-the-Pulpit Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum là :
- acide oxalique.
Nhiều bộ phận của Cây, nhất là rễ chứa :
- những tinh thể oxalate
de calcium.
▪ Ngoài nguyên chất chát âcre, Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema
triphyllum chứa :
- một tĩ lệ lớn tinh bột
amidon;
cũng như :
- chất gôm gomme,
- chất lòng trắng trứng albumine,
- chất saccharine,
- muối calcium Ca
- và potassium K,
- và trích xuất extractive.
Khi đặc tính chát acre đã được loại ra bởi nhiệt độ, rễ mang lại một chất tinh bột tinh
khiết amylacée pure và tinh tế, giống
như bột rễ huỳnh tinh marrante tốt nhất, rất trắng và dinh
dưởng
▪ Những tinh thể rất nhỏ raphides của oxalate de calcium mang lại
cho thân củ có vị chát acrid của nó đã
được xác định bởi Weber (1891).
Đặc tính trị liệu :
▪ Rễ Cây Rễ rồng 3 lá
Arisaema triphyllum là :
- vị chát acre,
- sát trùng antiseptique,
- đổ mồ hôi diaphorétique,
- long đờm expectorante,
- kích ứng irritante,
- và là chất kích thích stimulante.
▪ Rễ tươi Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema
triphyllum được xem như quá nguy hiễm và rất chát để sử dụng, trong khi
những rễ sấy khô trở nên không hoạt
động, vì thế, rễ tươi một phần sấy khô được sử dụng.
▪ Rễ Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema
triphyllum được áp dụng trong thuốc dán đắp cataplasme trên :
- những đau đầu maux
de tête,
- tổn thương bệnh tràng nhạc lésions scrofuleuses,
- những bệnh thấp khớp rhumatismes,
- những mụn nhọt furoncles,
- nhọt ung mủ abcès,
- và nấm ngoài da, sài đầu teigne.
▪ Một
nước nấu sắc décoction của rễ Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema
triphyllum được sử dụng để :
- rửa những mắt đau bệnh yeux endoloris.
● Sự sử dụng dược liệu :
▪ Những
thân củ cormes Cây Rễ rồng
3 lá Arisaema triphyllum được
bào nhỏ và đun sôi trong sữa lait để
chữa trị :
- bệnh ho toux,
- và bệnh lao tuberculose.
Nó được sử dụng để :
- tạo máu "construire
du sang".
Sử dụng
khác được biết là để chữa trị :
- bệnh suyễn asthme,
- viêm phế quản bronchite,
- và đau đầu maux de
tête.
● Hành động, sử dụng thuốc và liều lượng .
Hành động của rễ
tươi Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum, có :
- vị chát acrid,
- long đờm expectorant,
- và đổ mồ hôi diaphoretique.
▪ Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema
triphyllum được đề nghị trong :
- đầy hơi flatulence,
- bệnh bạch hầu đầu ( nhạt thở ) croup,
- ho gà coqueluche,
- viêm miệng stomatite,
- bệnh suyễn asthme,
- viêm thanh quản mãn
tính laryngite chronique,
- viêm phế quản bronchite,
- đau nhức lồng ngực douleurs
dans la poitrine,
- đau bụng tiêu chảy coliques,
- giai đoạn thấp của ban nhiệt typhus,
- và những bệnh khác nhau liên quan đến trạng thái suy
nhược état cachectique của hệ thống.
▪ Bên ngoài cơ thể, nó được sử dụng trong
:
- những ung bướu khối u bệnh tràng nhạc tumeurs scrofuleuses,
- viêm màng não tinea
capitis
- và những bệnh khác của da maladies cutanées.
▪ hành
động của nó trong tình trạng suy nhược prostration
cơ bản của những bệnh sốt fièvres với
sự mê sảng điên cuồng délire sauvage là
do những hiệu quả của nó trên những trung tâm não bộ centres cérébraux.
▪ Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum được nổi tiếng
lợi ích trong :
- bệnh sốt não tủy fièvre
céphalo-rachidienne,
- và bệnh tinh hồng nhiệt ( bệnh sốt đỏ tươi ) scarlatine,
sự mê
sảng được thể hiện, trong khi lưỡi bị :
- sưng enflée,
- đỏ rouge và đau
nhức douloureuse,
và
những màng miệng bị :
- viêm sưng enflammées.
▪ Viêm
thanh quản mãn tính laryngite chronique,
hoặc đau cổ họng, với một giọng khàn khàn đột nhiên và mất tiếng nói aphonie, cụ thể ảnh hưởng bởi Cây
Rễ rồng 3 lá Arum triphyllum.
▪ Cây Rễ rồng 3 lá
Arisaema triphyllum cũng là lợi
ích trong :
- loét thanh quản ulcération
du larynx,
- và yết hầu pharynx.
▪ Đây
là một phương thuốc, bên trong cơ
thể và bên ngoài tại chổ, cho :
- những đau cổ họng maux
de gorge đỏ nghiêm trọng.
Chủ trị : indications
● Chỉ định
và sự sử dụng đặc biệt :
▪ Khàn
giọng enrouement và mất tiếng aphonie, với :
- phỏng cháy brûlure,
- và co thắt cổ họng constriction
de la gorge,
- và chảy nước mũi écoulement
nasal,
▪ đau
nhức cổ họng dữ dội, với :
- chảy máu saignement
và mùi hôi thối fétide;
cảm giác :
- sung mãn plénitude,
- hoặc sưng miệng enflure
de la bouche,
- cổ họng gorge,
- và lưỡi langue,
chứng sau
cùng này là lưỡi màu đỏ và nhạy cảm sensible.
Kinh nghiệm dân gian :
● Lịch sử và dân gian :
▪ Một
số bài tường thuật của những người dân bản địa Indiens Meskwaki nói rằng, họ chặt rễ
của Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum thành miếng nạt thịt
và để lại cho kẻ thù tìm thấy.
Hương
vị của nó sẽ không được nhận thấy, nhưng sự tiêu thụ của thịt này sẽ là nguyên
nhân để cho kẻ thù của họ đủ đau đớn để gây ra tử vong.
▪ Nó
cũng được sử dụng để xác định số phận của những người bệnh bằng cách để một hạt vào trong một chén nước.
Nếu hạt
quay đi 4 lần trong chiều kim đồng hồ, bệnh nhân sẽ hồi phục, nếu không thì họ
sẽ không còn sống.
▪ Rễ Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema
triphyllum được sử dụng như thuốc ngừa thai contraceptif bởi những thổ dân bản địa Bắc Mỹ Amérique du Nord.
Người
ta cho rằng 1 muỗng cà phê của bột
rễ sấy khô trong nước lạnh ngăn chận sự thụ thai trong vòng 1 tuần, trong khi 2
muỗng cà phê bột rễ trong nước nóng được cho là gây ra :
- một vô sinh vĩnh viễn stérilité
permanente. “(Weiner)”.
▪ Một chế phẩm của rễ đã được sử
dụng bởi những thổ dân bản địa Mỹ Amérindiens
như chữa trị cho :
- những đau mắt yeux endoloris.
Những chế phẩm Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum cũng đã được thực
hiện để chữa trị :
- bệnh thấp khớp rhumatisme,
- viêm phế quản bronchite
- và những vết rắn cắn morsures de serpent,
cũng như để gây ra :
- vô sinh stérilité.
▪ Rễ già của Cây Rễ
rồng 3 lá Arisaema triphyllum
được sấy khô bởi những người dân bản địa Mỹ Amérique và được sử dụng để chữa
trị :
- bệnh ho toux,
- cảm lạnh rhume,
- những bệnh đau mắt yeux
endoloris,
- và bệnh ho gà coqueluche.
Nó cũng
được sử dụng bên ngoài cơ thể cho :
- những bệnh thấp khớp rhumatismes,
- những mụn nhọt furoncles,
- và những vết rắn cắn morsures
de serpent.
Nghiên cứu :
Không biết, cần bổ sung.
Hiệu quả xấu và rủi ro :
● Độc tính
Toxicité :
Một số bộ phận của Cây xanh tươi Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema
triphyllum là độc hại toxiques.
Nó là
chất kích ứng dữ dội cho những màng nhầy nếu được nhai và dùng vào bên trong cơ thể, nguyên nhân
của :
- viêm dạ dầy ruột dữ dội gastro-entérite violente,
có thể
kết thúc đi đến tử vong.
▪ Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum có thể là do một
sự kích ứng irritation của :
- miệng bouche,
- và hệ thống tiêu hóa système digestif
và, trong những trường hợp hiếm hoi
:
- sưng miệng gonflement de la bouche,
- và cổ họng gorge
có thể là đủ nghiêm trọng để gây
bệnh :
- đường hô hấp affecter la respiration.
▪ Nếu Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum
được sấy khô đúng cách hoặc nấu chín, nó có thể được tiêu thụ như
rễ củ của những loài thực vật khác.
● Chống
chỉ định / Tương tác / Phản kứng bất lợi :
▪ Do bản chất tiềm năng độc hại toxique của Cây này, nó chỉ nên sử dụng bên trong cơ thể dưới sự giám sát của
một người chuyên môn có khả năng thật sự .
▪ Tiêu thụ Cây sống Cây Rễ rồng 3
lá Arisaema triphyllum có thể
gây ra :
- một cảm giác đốt cháy brûlure
trong :
- miệng bouche,
- và cổ họng gorge,
- tiêu chảy diarrhée,
- buồn nôn nausées,
- và ói mữa vomissements,
- rối loạn sự biểu hiện lời nói troubles de l'élocution,
- sưng miệng gonflement
de la bouche và lưỡi langue ( có
thể khép lại những đường hô hhấp voies
respiratoires nếu nghiêm trọng ),
- và những mắt chảy nước mắt yeux larmoyants.
● Cảnh báo :
▪ Theo
trang web Dr Koop.com, acide oxalique
và chất asparagine trong Cây jack in
the pulpit Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum là độc hại toxiques nếu được nuốt phải.
▪ Tất cả
những bộ phận của Cây Rễ rồng 3
lá Arisaema triphyllum chứa oxalate de calcium gây ra một sự kích
ứng irritation cho :
- miệng bouche,
- và của hệ thống dạ dày-ruột gastro-intestinal
khi được tiêu dùng, ngay sau một thời gian sau khi ăn vào,
nếu nó không được chuẩn bị kỹ lưởng.
Ứng dụng :
● Sự sử dụng / Dược lý Pharmacologie:
Jack-in-the-Pulpit Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema triphyllum có thể được sử
dụng như :
- thuốc sát trùng antiseptique,
- làm đổ mồ hôi diaphorétique,
- long đờm expectorant,
- kích ứng irritant,
- và kích thích stimulant.
Nó được sử dụng trong hàng trăm năm
để chữa trfị :
- những bệnh nhiễm khác nhau của da infections de la peau,
và làm
giảm đau nhức nói chung, bao gồm :
- những mắt đau bệnh yeux
endoloris,
- và những đau đầu maux
de tête.
● Liều lượng / Công thức :
▪ Một
thuốc dán đắp cataplasme hoặc thuốc
mỡ pommade của rễ Cây Rễ rồng 3 lá
Arisaema triphyllum, nghiền nát
có thể được sử dụng để chữa trị :
- chàm, nấm ngoài da teigne,
- và những bệnh nhiễm nấm tại chỗ khác infections fongiques topiques.
▪ Áp
dụng một thuốc dán đắp cataplasme trên
trán cũng có thể giúp chống lại :
- những đau đầu maux
de tête.
▪ Một
thuốc bổ tonique của rễ sấy
khô có thể được sử dụng để làm giảm :
- những triệu chứng cảm lạnh symptômes du rhume.
▪ Bột rễ có thể được dùng trong liều của
10 hạt, gia tăng, nếu cần thiết,
- đến 20 hoặc 30 hạt, và
lặp đi lặp lại tất cả những 3 hoặc 4 giờ.
Nó có thể dùng trong chất nhầy ngọt
mucilage sucré, của sirop hoặc mật
ong miel.
● Ứng dụng
khác :
Âm nhạc, Tinh bột Amidon.
▪ Một tinh bột thu được từ những rễ Cây Rễ rồng 3 lá Arisaema
triphyllum được sử dụng như :
- chất làm vải cứng raidisseur cho quần áo. Nó rất khắc kỵ
với da, gây ra :
◦ những mụn nước cloques,
◦ và phồng gonflements
cho da.
▪ Những hạt được sử dụng trong những lục lạc ( trống lắc ) hochets.
Thực phẩm và biến chế :
▪ Củ tubercule - cần phải sấy thật khô hoặc nấu chín trước khi ăn.
▪ Những rễ có thể cắt thành miếng rất mỏng và để khô trong nhiều tháng, sau
đó nó được tiêu thụ như khoai tây chiên croustilles,
nghiền vụn để làm thành bột ngủ cốc céréale
hoặc nghiền nhuyễn thành bột có hương vị cacao để làm bánh biscuits, những bánh
ngọt …v…v….
▪ Nó cũng có thể nghiền nát thành
bột, sau đó để khô trong nhiều tuần, khi nó trở nên an toàn để sử dụng.
▪ Một số cá nhân sản xuất hạt phải
chế biến thành những thực phầm để lưu trữ trong nhà họ cũng như những thân củ
nạt dưới đất có dạng củ hành tây oignon, mà đã được đặt tên là củ cải Ấn Độ.cho
Cây này.