Tâm sự

Tâm sự

jeudi 26 juillet 2012

Cây vú sữa - Pomme de lait


Pomme de lait
Cây Vú sa
Chrysophyllum cainito L.
Sapotaceae
Đại cương :
Cây vú sữa Chrysophyllum cainito là một cây vùng nhiệt đới thuộc họ Sapotaceae, có nguồn gốc từ vùng đồng bằng đất thấp ở Trung Mỹ và Tây Âu. Cây vú sữa phát triển tăng trưởng rất nhanh đạt đến khoảng 20 m chiều cao.
Chrysophyllum cainito có nhiều tên thông dụng bao gồm cainito, caimito, star apple, cây lá vàng, abiaba, pomme du lait, estrella, milk, milk fruit và aguay.
Ở Việt Nam, cây được gọi là “ Cây vú sữa ” ( theo nghĩa chữ gọi là sữa mẹ lait maternel )
Chrysophyllum cainito là một cây ăn trái được du nhập. Trái ăn được, gọi là pomme de lait tạo sữa, Việt nam gọi là trái vú sữa do tính chất đặc biệt ở nhũ tương trắng ngọt như sữa.
Ngày nay cây vú sữa được phổ biến rất rộng trong nhiều nước, những vùng eo đất, nhất là ở Costa Rica, nơi đây cây vú sữa đóng vai trò cây ăn trái lớn nhất, tương tự như cây măng cụt trong khu vực Đông Nam Á. Ở nơi khác cây được trồng trong những nước khác nhau như Nam Mỹ, Việt Nam, Nam Ấn Độ, Tích Lan, vú sữa cũng được trồng ở Antilles. Là một cây “ tự thụ phấn ” có thể đạt đến 6 đến 30 m chiều cao và có vỏ giàu chất mũ latex. Lá không rụng thường xanh.
Trái vú sữa được đánh giá cao về giá trị của nó và được trồng ở miền Bắc Úc nhưng căn bản vẫn còn hạn chế. Cũng như ở Hawaii và Florida.
Sử dụng, tiêu thụ rộng rãi nhưng gặp phải sự đề kháng trong vấn đề vận chuyển nên hiện nay tìm thấy rất ít trong thị trường Âu Châu.
Thực vật và môi trường :
Nguồn gốc : Nguồn gốc trong những vùng đất thấp của Mexique và Trung Mỹ và đảo Caraibes cũng như được trồng ở Antilles.
Mô tả thực vật :
Trái vú sữa còn gọi là pomme de lait ( táo sữa ) là vì kích thước thuộc tiêu chuẩn của một trái pomme ( táo tây ).
Da của trái vú sữa có khi xanh, hồng nhạt hay đỏ tím, màu sắc này tùy thuộc vào loại ( variété ), loại variété có màu tím có lớp vỏ dày hơn trái màu xanh và trái ngọt hơn .
Bên trong nạt bở bao quanh những hột lớp trong mờ, hột không ăn được cứng.
Cây vú sữa chủ yếu được trồng ở Antilles. Cây vú sữa tự thụ phấn đạt tới độ cao từ 6 đến 30 m và có chu vi đạt tới 1 m, tán cây rộng 20 đến 24 m, giàu chất mũ latex màu trắng .
không rụng thường xanh, mọc cách, phiến hình bầu dục, lá nguyên, dài 5 – 15 cm, mặt dưới lá bóng sáng màu nâu vàng óng ánh, có lông dày nếu người ta nhìn từ xa.
Hoa nhỏ, chụm ở nách lá, 5 – 6 cm, có lông hoe, màu tím trắng và có mùi thơm ngọt, hoa lưỡng phái, cơ quan đực và cái cùng trên một hoa, tự thụ phấn ( auto-fertile ), tiểu nhụy 5 – 6 gắn trên ống vành.
Trái tròn, phì quả, nặng khoảng 560 g, da màu tím thường màu màu xanh chung quanh đài hoa, láng trơn, với sơ đồ hình ngôi sao ở giữa nội quả bì, mỗi cánh sao chứa một hạt bao quanh bởi lớp nạt dai, trong mờ. Vỏ của trái có nhiều mủ như cao su, mủ và vỏ không ăn được.
Hạt màu đen, dẹp, chót ngọn nhọn, cứng bóng, thẹo trắng dài.
Cây vú sữa mang trái suốt năm sau khi cây đạt được 7 năm tuổi.
Có một số loài có liên quan chặc chẻ với chrysophyllum, cũng được gọi là cainito vú sữa, được trồng ở Châu Phi, bao gồm chrysophyllum albidumchrysophyllum africanum.
Ở Việt Nam, loài vú sữa nổi tiếng là vú sữa Lò Rèn, trái vú sữa này đến từ Vĩnh Kim, huyện Châu Thành tỉnh Tiền Giang.
Ở Sierra Leone, trái vú sữa được mệnh danh là “ Bobi wata ” hay “ trái sữa mẹ ”.
Khí hậu :
Cây vú sữa là một cây cho quả của vùng nhiệt đới rất phổ biến trung vùng nóng ẫm ở vĩ độ thấp hơn 25 Bắc và 20 Nam. Dường như vú sữa thích ứng với một vài vùng cận nhiệt đới. Trong bất kỳ trường hợp nào bị thời gian quá dài ở nhiệt độ gần 0° C, trong khi cây trưởng thành đã bị chết ở -2° C, cho nên rất khó trồng vú sữa ngoài trời ở vĩ độ của khí hậu Địa trung Hải.
Bộ phận sử dụng :
Vỏ cây lá và trái,
Thành phận hóa học và dược chất :
Trái vú sữa có 53 đến 63 % phần ăn được.
▪ Vỏ trái vú sữa cứng phần không ăn được, và thành phần dinh dưởng chứa trong 100 g phần ăn được :
- nước  80.5 à 82.6 g,
- chất đạm protéines 0,7 à 1,3 g,
- chất béo lipides 0,6 à 1,1 g,
- đường glucides 15,3 à 17,4 g,
- chất xơ thực phẩm ( vết ) - 0,7 g,
- tro 0,2-0,3 g,
- calcium Ca 14-17 mg,
- phosphore P 9-13 mg,
- sắt Fe 0,2-0,4 mg,
- vitamine A ( vết )- 10 UI,
- thiamine 0,01-0,02 mg,
- riboflavine 0,01-0,02 mg,
- niacine 0,8 0,9 mg,
- và vitamine C 6-7 mg.
Giá trị năng lượng là từ 280 đến 300 kJ cho 100 g.
▪ Phân tích thành phần ở Trung Mỹ cho thấy giá trị dinh dưởng tối đa rất nhạy tăng lên tối đa cho tất cả các thành phần trừ nước, chất béo, và chất đường glucides .
▪ Hột đắng chứa nhiều lucumin
Đặc tính trị liệu :
Trái vú sữa ăn được, nạt nội quả bì nhiều nhũ tương ngọt như sữa.
● Lá :
Ngâm trong nước đun sôi lá vú sữa được sử dụng để chống :
- bệnh tiểu đường,
- đau thấp khớp rhumatisme.
- đồng thời trái vú sữa là một trái cây  kích thích tình dục và người ta tiêu thụ sau đó gợi lên sự ham muốn tình dục phái tính.
- Mặt dưới của lá cắt nhuyễn và áp dụng như một thuốc dán vào vết thương.
- nước sắc lá sử dụng uống để hạ đường huyết.
● Vỏ :
Nấu sắc vỏ cây vú sữa được sử dụng :
- như là một chất bổ,
- và như là một chất chống ho.
Cây vú sữa là một cây trồng truyền thống ở Phi Châu, trái ít được biết đến này có tiềm năng để :
- cải thiện dinh dưởng,
- tăng cường an ninh thực phẩm,
- thúc đẩy sự phát triển nông thôn và hỗ trợ bảo vệ đất đai bền vững.
● Trái :
Trái vú sữa được sử dụng trong trường hợp :
- xuất huyết
- và được nấu chín để chữa trị bệnh sốt.
Vỏ cây và mủ cao su và hạt cũng có đặc tính chữa bệnh.
● Trái vú sữa cung cấp những nguyên tố khoáng và vitamines.
Những trái vú sữa đã được sử dụng ứng dụng trong :
- hệ thống miễn dịch,
- hệ thống tiêu hóa
- và ứng dụng vào trong hệ thống tuần hoàn.
● Hạt vú sữa ứng dụng vào :
- hệ thống biến dưởng trao đổi dưởng chất,
- áp dụng vào hệ thống sinh dục và tiểu tiện génito-urinaires,
- vào hệ miễn dịch
- và hệ tiêu hóa.
● Thân cây vú sữa đã được dùng vào :
- hệ thống biến dưởng
- và hệ tiêu hóa.
▪ Trong những thí nghiệm trên chuột, trái vú sữa được xem như tăng tuổi thọ lên đến 20 %.
Ứng dụng :
● Thức ăn thực phẩm :
Thành phần trái vú sữa một phần lớn là ăn được. Thường thường trái được ăn sống và có thể dùng như kem nước trái cây lạnh.
Ở Jamaïque, đôi khi người ta biến chế dưới dạng bảo quản đóng hộp.
Khi trái vú sữa còn xanh trái có rất nhiều mũ trắng dính như cao su, là một chất :
- làm se dính chung quanh miệng khi ăn.
Nhưng khi trái chín, nội quả bì trắng trong mờ với một hương vị ngọt thơm dể chịu bao chung quanh một hột màu đen.
● Chất xơ cây vú sữa :
Người ta biến chế thành sản phẩm giấy với phẩm chất rất tốt, có thể lấy từ gổ cây vú sữa.
● Gổ vú sữa :
Giác gỗ và lõi gỗ có màu nâu sẫm, cứng nhưng không bền, có cấu trúc nhuyễn trung bình.
Gỗ được biến chế tạo vật dụng trong nhà, trang trí nội thất….
Tanin dùng làm thuốc nhuộm, trích từ vỏ cây.
● Trái vú sữa được xem như là một trái cây giải khát.
Thực phẩm và biến chế :
Trái vú sữa được dùng làm thức ăn tráng miệng hoặc khai vị. Đây là một loại trái cây mới mẻ.
Theo truyền thống dân gian bình dân, người ta cắt trái cây vú sữa làm đôi và ăn bằng muỗng, bỏ hạt, cẩn thận khi cho trẻ em ăn có thể mắc cổ bởi hạt.
▪ Ở những trẻ em hoặc người lớn, người ta vò bóp thật mềm trái vú sữa, mục đích tách rời nội quả bì nạt với vỏ sau đó rút cuống trái chừa một lổ ở cuống và dùng miệng hút rất là thú vị …… rất ngon nếu được leo trên cây trái nhiều ăn tại chổ thì hết ý.


Nguyễn thanh Vân

vendredi 20 juillet 2012

Hạt Quinoa - Quinoa

Quinoa
Hạt Quinoa
Chenopodium quinoa Willd.
Chenopodiaceae
Đại cương :
Quinoa tên khoa học là Chenopodium quinoa, là một loại thực vật vừa là dược thảo cũng là một cây cho hạt dinh dưởng hàng năm thuộc họ Chenopodiaceae. Được trồng quy mô sản xuất cho hạt rất giàu protéine. Quinoa được xem như một “ ngũ cốc-giả pseudo-céréale ”, vì bản thân quinoa không phải họ ngũ cốc graminea hay poaceae nhưng nó là một loài thực vật thân thảo thuộc họ giống như rau dền, rau muối.
Người Incas gọi quinoa là “ chiriya mama ” có nghĩa là “ mẹ của các loại hạt ”.
Kế hoặch trồng và phát triển quinoa là thu hái hạt. Cây truyền thống này đã được trồng từ hơn 5000 năm trên vùng cao nguyên Nam Mỹ. Chẳng hạn như đậu haricot, khoai tây pomme de terre và bắp maïs, quinoa là thức ăn căn bản của nền văn minh tiền colombie, nhưng, không giống như trước, quinoa đã không được để ý thu hút bởi những người chiến thắng Tây ban Nha, bởi vì hàm lượng saponine có trong vỏ của hạt chưa bốc vỏ nên bột quinoa sản xuất đã được rút ra, không làm bánh mì, bởi vì sự vắng mặt chất gluten trong thành phần. Người ta chế tạo bia truyền thống từ chicha.
Thực vật và môi trường :
► Mô tả thực vật :
Quinoa là một loài thực vật song tử diệp ( cây có 2 lá mầm ). Cây cho ra một bụi rộng, thường thường có lông, bột mịn, lá có thùy trơn mướt ( rất hiếm ), bình thường mọc cách.
Thân quinoa ngấm chất lignine ở trung tâm hay phân nhánh tùy theo loại variété và có thể có màu xanh lá cây, màu đỏ hay màu đỏ tím .
Các nụ hoa phát sinh từ phần ngọn của cây hay ở nách lá của thân. Chùm hoa hình chùy là một trục trung tâm, từ đây một trục thứ cấp hoặc với những hoa ( dạng hình cầu hay chùy như hoa họ mồng gà ), hay mang một trục tam cấp mang chùm hoa.
Những hoa màu xanh lá cây, bầu noản hạ, bao hoa đơn giản và thường lưỡng phái và tự thụ phấn.
Trái, khoảng 2 mm đường kính và có màu sắc khác nhau từ trắng sang màu đỏ hoặc đen tùy thuộc vào cây trồng.
► Đặc tính sinh học :
Quinoa là một loài thực vật không được cãi thiện bằng sự nhân giống chọn lọc, do đó ta thấy có sự biến đổi đáng kể trong sự trồng trọt phát triển. Là một cây hằng niên, song tử diệp và cao khoảng 0,5 – 3,0 m( trung bình 21,5 m ). Màu sắc nguyên thủy là màu xanh lá cây, tím và đỏ, màu sắc này sẽ thay đổi tất cả sắc thái khác nhau trong thời gian trưởng thành chín.
Quinoa được trồng trong những điều kiện khác nhau trong những vùng alpines trong Andes. Quinoa có thể trồng thành công trong cao độ 0 đến 4000 m, trên mực nước biển.
Đối với điều kiện khí hậu và địa thế Âu Châu, các kiểu nhiễm thể gen thích hợp nhất là những mẫu gen có nguồn gốc Chili ( 0 – 500 m trên mực nước biển ). Đây là những quinoa ngắn hạn ( 90 đến 100 ngày ) với đặc tính không phân nhánh nhiều, dài và phát hoa ngắn gọn và hạt to trắng  hay vàng với hàm lượng saponine thấp. Trong kỹ nghệ thực phẩm đòi hỏi hạt phải màu trắng hay màu vàng .
Bộ phận sử dụng :
Hạt
Thành phận hóa học và dược chất :
Quinoa ( Chenopodium quinoa ) được xem như là “ giả ngũ cốc ” hay giả hạt ”, đã được công nhận như một thực phẩm toàn phần bởi lý do ở lượng protéine của nó. Quinoa cho một đặc tính đáng chú ý về dinh dưởng, không chỉ ở hàm lượng chất đạm protéine ( 15 %), mà cũng là ở sự cân bằng các acíde amines tuyệt hảo của nó. Quinoa là nguồn quan trọng :
- những nguyên tố khoáng,
- và sinh tố vitamines,
và cũng đã tìm thấy có chứa những hợp chất :
- polyphénols,
- phytostérols,
- những flavonoïdes,
- và những lợi ích dinh dưởng có thể có.
Quinoa có một vài chức năng ( kỹ thuật ) như :
- khả năng hòa tan tốt,
- khả năng giử nước WHC,
- khả năng đông đặc,
- khả năng nhủ tương hóa,
- và khả năng tạo bọt cho phép sử dụng đa dạng.
Ngoài ra, quinoa được coi là một sự canh tác để thu hoặch dầu, với tĩ lệ rất thú vị về:
- acides béo oméga 6,
- và một hàm lượng vitamine E đáng chú ý.
Tinh bột quinoa có những tính chất vật lý-hóa học ( physico-chimique ) ( chẳng hạn như độ đông đặc stabilité gel, độ nhờn viscosité. Những tính chất này đã cung cấp cho quinoa một chức năng với những sử dụng mới.
Quinoa có một giá trị cao về mặt dinh dưởng và gần đây quinoa được dùng như một thực phẩm với chức năng mới là vì tất cả các đặc tính của quinoa.
Quinoa là một thực vật trồng thay thế đầy hứa hẹn.
Một sự phân tích tổng quát nhanh, thành phần hợp chất nguyên tố khoáng và thành phần acides amines đã được xác định cho mỗi tế bào mô riêng rẻ :
- rể,
- lá,
- thân,
- và hạt.
● Về phương diện acides béo
● đường glucides,
● tổng số hàm lượng tinh bột,
● acide ascorbique ( vitamine C ),
● thiamine ( vitamine B1 ),
● riboflavine ( vitamine B2 ),
● niacine ( vitamine B3 ),
● vitamine A,
a-tocopherol (vitamine E),
● và bêta-carotène, phân tích tại thời điểm này chỉ thực hiện :
- trên hạt
- và trên mô của lá.
Dinh dưởng quinoa, người ta có thể nói quinoa là một “ siêu thực phẩm ”. Điều này tốt hơn một ngũ cốc.
Quinoa là một hợp chất gồm :
- 70 % đường glucides,
- 15 % chất đạm protéine,
- và vài chất béo ,
- người ta cũng không quên thành phần chất xơ thực phẩm và những nguyên tố khoáng .
Quinoa là một hợp chất gồm 70% đường glucide, 15 % chất đạm protéine và vài chất béo lipides, người ta cũng không quên những thành phần chất xơ và một số lớn nguyên tố khoáng.
● Quinoa
Hàm lượng đường glucide của quinoa gần như giống như ngũ cốc, nhưng những chất đạm thì đặc biệt và thú vị hơn. Quinoa chứa nhiều hơn và trên tất cả, quinoa chứa tất cả những acides amines thiết yếu ( EAA ), phần thiếu hụt của những thứ ngũ cốc trước.
Chỉ có sản phẩm thực vật trên thế giới có chứa tất cả AAE đó là đậu nành, những AAE là ngoài sự kết tập có trong các loại  thịt.
Quinoa là đặc biệt khuyến khích trong thực phẩm cho một chế độ ăn chay hoàn toàn végétariene.
● Một lợi ích khác là Quinoa không chứa chất gluten. Những người không dung nạp được gluten có thể quinoa là sản phẩm thức ăn trung thành của họ.
► Quinoa, chưa nấu chín, giá trị dinh dưởng cho 100 g :
- Năng lượng  1,539 kJ (368 kcal)
- chất đường glucides 64 g
- tinh bột 52 g
- Chất xơ thực phẩm 7 g
- chất béo 6 g
- polyunsaturated  3.3 g
- chất đạm 14 g
- nước 13 g
- Thiamine (vitamine. B1)      0.36 mg (31%)
- Riboflavin (vitamine. B2)  0.32 mg (27%)
- Vitamine B6  0.5 mg (38%)
- Folate (vitamine. B9) 184 μg (46%)
- Vitamine E  2.4 mg (16%)
- sắt Fe  4.6 mg (35%)
- Magnesium Mg  197 mg (55%)
- Phosphore P  457 mg (65%)
- Kẽm Zn  3.1 mg (33%)
Percentages are relative to US recommendations for adults.
Source: USDA Nutrient Database

● Hàm lượng saponin :

► Quinoa đỏ, nấu chín :
Quinoa trong trạng thái tự nhiên của nó có một lớp vỏ phủ bên ngoài, có chất saponine, có vị đắng, khi người ta ăn vào có cảm giác khó chịu. Hầu hết quinoa bán trong thương mại ở Bắc Mỹ đã được chế hóa để loại bỏ lớp phủ bên ngoài.
Hương vị cay đắng này có hiệu quả lợi ích cho quinoa khi giai đoạn trồng tỉa, như là một cây không phổ biến thích hợp cho những loài chim và sự cần thiết cho sự bảo vệ được giảm thiểu đến mức tối đa. Người ta đã cố gắng làm giảm hàm lượng saponine của quinoa, bởi sự chọn lọc để tạo ra một sản phẩm dịu ngọt ngào, những thứ loại có hương vị dể chịu ngon miệng, sự kiện được xác nhận rất là khó khăn do sự ô nhiễm bởi sự giao thoa thụ phấn.
Các thể loại có tính độc của saponine được phân loại như là :
- mắt mềm ướt,
- kích thích sự hô hấp,
- và hơi kích thích hệ tiêu hóa gastro- intestinal.
▪ Chất saponine là một chất glucoside độc hại, một tác nhân đóng góp chủ yếu có hiệu quả tiêu huyết ( dung huyết hay tán huyết ) khi mà saponine tiếp súc trực tiếp với các tế bào máu.
Ở Nam Mỹ, chất saponine của quinoa có rất nhiều công dụng ngoài sự tiêu thụ, trong đó bao gồm :
- chất tẩy rửa quần áo,
- chất sát khuẩn cho các vết thương ở da,
► Mức độ cao của acide oxalique trong lá cao và ở thân, người ta tìm thấy trong tất cà các loài của giống chénopodia, nhưng đồng thời cũng hiện diện trong những họ của những cây thuộc họ Polygonaceae và Amaranthaceae.
Những sự rửi ro liên quan tới quinoa được coi như là tối thiểu, với điều kiện :
- phải được chuẩn bị đúng cách
- và sự tiêu thụ không vượt quá mức hạn định.
Bảng : Những acides amines thiết yếu của quinoa so với của lúa mì, đậu nành, sữa tách kem và mô hình tham khảo của FAO Tổ chức Lương Nông Quốc Tế 1973, để đánh giá protéin.
Dinh dưởng :
Quinoa :
- rất dể tiêu hóa,
không có gluten,
nghèo chất béo,
- nhưng giàu nguyên tố sắt Fe,
- giàu Oméga 3
- và giàu chất đạm protéine.
Trung bình quinoa chứa :
- 16 – 18 % chất đạm protéine.
Quinoa cũng chứa tất cả các acides amines thiết yếu cho cuộc sống con người.
Hạt quinoa gọi :
- hình dạng của “ hạt kê millet ”.
- có cấu trúc của một “ trứng cá caviar ”,
- và có một hương vị “ hạt noisette ”.
Quinoa nấu dể dàng mặn cũng như ngọt.
Đối với sự tiêu thụ, quinoa cần phải rửa trong nước để loại bỏ hương vị đắng. Điều này được thực hiện tốt bằng cách nấu sôi 3 lần trong nước sôi. Người ta nấu với lửa nhỏ đến khi hạt nở ra,  xuất hiện mầm bên trong  ( trong vòng khoảng 20 phút ). Kế đó, đậy nấp trong vài phút và để quinoa hấp thu lại hoàn toàn nước còn lại.
Quinoa có thể thay thế hoặc nấu kèm theo như gạo, semoule hay pâtes ( mì ống ….).
Bột quinoa có thể biến chế nhiều thức ăn, thường có thói quen thực hiện chung với lúa mì như crêpes, fars….với điều kiện là giảm phân nữa số lượng bởi vì bột quinoa có thể thấm nước nhiều, lượng quan trọng.
▪ Nguyên nhân sự hiện diện của saponine, nên quinoa không được khuyến khích sử dụng ở những trẻ em dưới 2 tuổi.
Chỉ số PRAL của quinoa rất nhẹ coi như không có (-0,19 ), làm cho quinoa chiếm một vị thế tuyệt hảo có thể thay thế cho các loại ngũ cốc trong công tác phòng chống bệnh loãng xương  ostéoporose.
► Saponine trong quinoa :
Saponine là một chất thực vật sản xuất chủ yếu trong những cây. Saponine được xem như một tác nhân chống lại sự dinh dưỏng, có nghĩa là những chất này làm cản trở sự hấp thu và sự sử dụng bởi các cơ thể của các chất dinh dưởng quan trọng, chẳng hạn như sắt Fe.
Vì lý do này, mà saponine cần phải được loại bỏ trước khi tiêu dùng.
Quinoa hiện diện trong các siêu thị chứa rất ít chất saponine, saponine được loại bỏ bằng phương cách rửa nước.
Sự hiện diện của saponine không có hại. Những nghiên cứu chỉ ra rằng những hiệu quả tác dụng lợi ích khác nhau của saponine :
- chống dị ứng antiallergique,
- chống viêm sưng anti-inflammatoire,
- phòng chống ung thư,
- cholestérole thấp hypocholestérolémiant.
Tuy nhiên, những nghiên cứu này được thực hiện trên động vật, nghiên cứu thực hiện quan sát trên con người là cần thiết.
▪ Những saponines cũng được quan tâm về dược lý, bởi vì quinoa có thể sửa đổi tính thấm của ruột non và cũng giúp đở sự hấp thu của thuốc đặc biệt.
▪ Những saponine không ảnh hưởng xấu trên phẩm chất sự sinh dưởng của chất đạm protéine của quinoa.
▪ Những nghiên cứu chỉ cho thấy, kết quả của acides amines của quinoa rất giống nhau tương tự trước và sau khi rửa, có thể nói, nghĩa là trong quá trình loại bỏ, những saponines không thay đổi thành phần hợp chất của acides amines của hạt quinoa .
Để ly trích saponines từ hạt quinoa, người ta trước hết đánh bóng bằng cách chà xát những hạt quinoa và kế tiếp rửa những hạt này bằng nước.
►Hạt quinoa giàu chất dầu :
Thông báo cho những người ăn chay hoàn toàn végétariens.
Quinoa có những đặc tính dinh dưởng khác nhau ưa thích cho những người ăn chay. Trong số đó được tìm thấy những nguyên tố như :
- sắt Fe,
- kẽm Zn,
- và vitamine B2.
Ngoài ra, quinoa rất giàu chất đạm protéine thực vật ( 15% ) có phẩm chất cao. Hàm lượng chất đạm rất cao và thành phần acides amines được cho là cân bằng hơn so với những ngũ cốc khác thông dụng.
Khi  người ta so sánh với các ngũ cốc khác, quinoa không những có một hàm lượng dầu tương đối cao, mà còn có một đặc tính dinh dưởng khác quan trọng. Hàm lượng dầu đại diện trung bình là 5,8% của khối lượng ở trạng thái thiên nhiên.
► Những acides béo thiết yếu :
- Acide linoléique,
- và acide alpha-linoléique đại diện cho 55% đến 63% những chất béo lipides trong nầu này.
Mặc dầu ở mức độ cao của acides béo thiết yếu, đó là nguyên nhân của sự oxy hóa.
Dung dịch ly trích dầu quinoa là tương đối ổn định nguyên nhân do mức độ cao của vitamine E.
► Quinoa chống lại bệnh thiếu máu :
Quinoa là một thực phẩm giàu nguyên tố sắt không hémique ( nguyên tố sắt thực vật ) ( 1,85 mg sắt cho 20 g quinoa ). Quinoa hoạt động như một phương cách tốt bao gồm thêm chất sắt trong chế độ ăn uống, đặc biệt cho những người mắc chứng bệnh thiếu máu. Cần lưu ý rằng nguyên tố sắt chứa trong thực phẩm có nguồn gốc thực vật ( như là quinoa chẳng hạn ) là ít hấp thu bởi cơ thể so với hàm lượng nguyên tố sắt chứa trong thực phẩm có nguồn gốc ở động vật.
Hơn nữa, để có một sự hấp thu tốt hơn cho “ nguyên tố sắt không hémique ”, tốt nhất là ăn hoặc cùng một bữa ăn một (1) giờ trước hoặc sau khi ăn, những thực phẩm có chứa vitamine C ( thí dụ như những trái cây họ cam quít, dâu tây fraise, dưa đỏ cantaloup, kiwi, poivron, hay bắp cải chou …v…v… ).
► Quinoa, không gluten :
Bệnh coeliaque, ( là một chứng bệnh “ tự miễn auto immune ”, bởi sự suy giảm tất cả hay một phần các “ nhung mao ” hấp thu trong nhu mạc ruột non, bệnh này gây ra sự không dung nạp gluten hay những chất đạm protéine liên quan được tìm thấy trong lúa mì, lúa mạch, yến mạch ….điều này đưa đến sự kém hấp thu do đó mà chế độ ăn uống có nhiều thiếu sót ) Protéine gluten được xem là độc hại đối với những người mắc bệnh coeliaque, do sự tiêu thụ của nó dẫn đến các triệu chứng đường ruột như là :
- kém hấp thu nhiều chất dinh dưởng. Sự chữa trị bệnh này là phải loại bỏ hoàn toàn gluten trong chế độ ăn uống.
▪ Quinoa không chứa gluten, là một thức ăn lý tưởng cho những người mắc chứng bệnh không dung nạp gluten.
▪ Cái khuyết điểm là ở chổ quinoa có thể bị lẩn lộn với những ngũ cốc khác có chứa gluten nhất là trong quá trình vận chuyển và chế biến qui mô ngũ cốc trong kỹ nghệ. Do đó, điều quan trọng là lựa chọn một bữa ăn với những hạt cẫn thận với sự chứng nhận trên bao bì bảo đảm “ không gluten
► Những chất dinh dưởng quan trọng :
●●● Manganèse Mn : Quinoa là nguồn tuyệt hảo của khoáng manganèse cho đàn bà và nguồn tốt cho đàn ông, do nhu cầu khác nhau. Manganèse hoạt động như một “ đồng yếu tố cofacteur ” của nhiều phân hóa tố enzymes tạo thuận lợi cho hàng chục quá trình phản ứng biến dưởng trao đổi chất khác nhau. Manganèse tham gia công tác phòng chống những thiệt hại do các gốc tự do gây ra.
●● Sắt Fe : Quinoa là nguồn của nguyên tố khoáng sắt Fe tốt cho đàn ông và nguồn cho đàn bà, theo như cầu khác nhau. Mỗi tế bào trong cơ thể đều chứa nguyên tố sắt Fe. Nguyên tố khoáng này thiết yếu để vận chuyển dưởng khí oxygène và hình thành tạo ra hồng huyết cầu trong máu. Nguyên tố khoáng sắt Fe đóng vai trò trong sự :
- sản xuất những tế bào mới,
- kích thích tố hormone
- và những chất dẫn truyển luồng thần kinh ( sứ giả trong các xung động thần kinh ).
●● Đồng Cu : Quinoa là nguồn rất tốt của đồng Cu. Là một thành phần của nhiều phân hóa tố, đồng rất cần thiết cho :
- sự thành lập hồng huyết cầu
- và chất nhờn collagène ( một thứ protéine sử dụng cho cấu trúc và sữa chữa mô tế bào ) trong cơ thể .
Nhiều phân hóa tố chứa đồng Cu cũng góp phần bảo vệ cơ thể chống lại những gốc tự do.
● Phosphore P : Quinoa là nguồn của phosphore, là nguyên tố khoáng thứ hai rất phong phú trong cơ thể sau calcium, phosphore đóng vai trò thiết yếu :
- trong sự thành lập và duy trì sức khỏe cho xương và răng.
Ngoài ra phosphore còn tham gia với những chức năng khác trong sự :
- tăng trưởng và tái sinh những tế bào mô
- và giúp duy trì tế bào ở trạng thái bình thường với độ pH của máu.
Cuối cùng phosphore là :
-  một trong những thành phần của màng tế bào.
● Magnésium : Quinoa là nguồn magnésium. Magnésium hợp tác phát triển xương, xây dựng cấu thành những chất đạm protéine, hoạt động của những phân hóa tố enzyme, sự co thắt cơ, tốt cho răng  và chức năng của hệ thống miễn nhiễm.
Quinoa giữ một vai trò trong sự biến dưởng trao đổi năng lượng và trong việc dẫn truyền luồng thần kinh.
● Kẽm Zn : Quinoa là nguồn kẽm, Kẽm tham gia trong những phản ứng của sự miễn dịch, sản xuất những vật liệu di truyền, nhận thức những hương vị, làm lành hóa sẹo những vết thương và phát triển những tế bào thai nhi fœtus. Đồng thời quinoa tương tác với những kích thích tố sinh dục và kích thích tố tuyến giáp trạng thyroïdiennes.
Trong tuyến tụy pancréas, quinoa tham gia vào quá trình tổng hợp sản xuất, dự trữ và lưu hành vận chuyển chất insuline.
● Vitamine B2. Quinoa là nguồn vitamine B2, vitamine này còn gọi là riboflavine. Giống như B1, Vita B2 đóng vai trò trong sự chuyển hóa năng lượng của tất cả tế bào.
Hơn nữa Vitamine B2 góp phần vào sự tăng trưởng và sửa chữa những tế bào mô bị hư hỏng, sản xuất kích thích tố và sự hình thành cấu tạo hồng huyết cầu.
Đặc tính trị liệu :
Không giống như gạo và lúa mì, quinoa không phải là họ hòa thảo poaceae. Thay vào đó quinoa được liệt vào nhóm “ giả ngũ cốc pseudo-céréale ” pseudo có nghĩa là giả không thật, giống như thật. Quinoa xứng đáng được biết đến, bởi vì quinoa chứa :
- một lượng lớn chất đạm protéine có phẩm chất rất cao,
- những acides béo đa bảo hòa
- và một số lớn chất “ vi dinh dưởng micronutrition ”.
Nhờ thành phần dinh dưởng, một vài khác nhau nhỏ với các ngũ cốc khác, và có một hương vị duy nhất đặc thù của quinoa. Bao gồm một chế độ ăn uống cho phép mang lại những thực đơn đa dạng khác nhau.
Hoạt chất chánh và đặc tính :
Sản phẩm ngũ cốc rất quan trọng cho chế dộ ăn uống của con người. Một trong những khuyến nghị của sở y tế ở các nước như Canada, Mỹ chẳng hạn, tư vấn cho người dân, ngày nay có thể những tư vấn này áp dụng chung cho các nước trên thế giới như các nước trong vùng Đông Nam Á, là cần thiết. Các tư vấn đánh mạnh vào những sản phẩm thành phần chủ yếu là ngũ cốc , bánh mì, rau cải, trái cây.
▪ Hướng dẩn ăn uống lành mạnh, xem xét các khuyến nghị ở điểm :
- lựa chọn các sản phẩm ngũ cốc nguyên hạt hoặc giàu chất dinh dưởng.
Bên cạnh đó các nhà có thẩm quyền sức khỏe dân chúng khuyến nghị một nửa nguyên liệu loại ngũ cốc nên ở dạng nguyên hạt .
Những khuyến nghị này dựa trên kết quả của sự nghiên cứu dịch tể học cho thấy rằng tiêu thụ ngũ cốc liên quan với một tĩ lệ rủi ro cho những bệnh :
- bệnh tim mạch ít hơn,
- bệnh tiểu đường,
- một vài bệnh ung thư,
- và bệnh béo phì obésité.
Những hiệu quả tác dụng lợi ích này liên quan đến sức mạnh những thành phần chứa trong những sản phẩm ngũ cốc nguyên hạt, như :
- những chất xơ thực phẩm,
- những chất chống oxy hóa,
- những sinh tố vitamines
- và những nguyên tố khoáng.
Như đa số các hợp chất chứa trong lớp bao bên ngoài hạt ( cám ) và hạt nẩy mầm, tốt nhất người ta tiêu thụ những hạt ngũ cốc đã được tinh chế nếu có thể.
► Chất xơ thực phẩm :
▪ Một khẩu phần 125 ml của quinoa chứa lượng chất xơ gần tương đương với một miếng bánh mì nguyên chất hay 125 ml gạo nấu chín.
▪ Loại chất xơ được tìm thấy trong bột quinoa có thể cải thiện khả năng tiêu hóa và hấp thu của “ giả-ngũ cốc” này trong ruột già ( phần cuối cùng của đường tiêu hóa, được chia làm 3 phần caecum, đại trường và trực tràng ).
Nói chung là một chế độ ăn uống giàu chất xơ hòa tan  có thể chữa trị :
- những bệnh về tim mạch,
- và bệnh tiểu đường loại 2, bằng cách bình thường hóa tĩ lượng cholestérole trong máu,
- lượng đường glucose,
- và insuline.
Những chất xơ hòa tan trong nước, đối với quinoa, cho phép duy trì chức năng của ruột đầy đủ.
Một thức ăn giàu chất xơ cũng có liên hệ đến ruột côlon, một nguy cơ ít hơn về ung thư ruột ( cancer du côlon ).
Cuối cùng, kể cả quinoa không còn chứa năng lượng, dùng nhiều chất xơ toàn phần cho ta  một cảm giác no nhiều.
► Chất đạm protéine :
Quinoa có chứa khoảng 15% protéine và thành phần của acides amine cân bằng hơn phần lớn các ngũ cốc khác, như là kê, lúa miến, lúa mì, gạo, bắp ….
Những protéine đựợc sử dụng chủ yếu dùng để đào tạo, sửa soạn và bảo trì làm tốt hoàn hảo tốt tình trạng mô tế bào. Quinoa cũng được dùng để tạo sản xuất ra những phân hóa tố tiêu hóa cũng như những kích thích tố.
Liên hiệp quốc ONU và tổ chức canh nông và lương thực OAA đã quan sát rằng protéine của quinoa, có hoặc không có saponine, sẽ là tương đương với phẩm chất chứa trong bột sữa nguyên chất. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là quinoa có thể thay thế sữa và các sản phẩm từ sữa trong một chế độ ăn uống cân bằng.
Quinoa và sữa đến từ 2 nhóm thực phẩm khác nhau, mỗi nhóm mang lại những dinh dưởng thiết yếu cho cơ thể.
● Quinoa rất giàu acides amines thiết yếu. Người ta bảo rằng acide amine quinoa là cần thiết cho cơ thể, nó không thể sản xuất từ cơ thể mà phải mang đến bởi thức ăn.
● Ở quinoa hàm lượng lysine cao, đây là một acide amine thường hay thiếu trong những sản phẩm ngũ cốc như là lúa mì và bắp.
● Quinoa cũng có nội dung rất tốt :
- méthionine,
- cystine,
- arginine,
- histidine,
- và isoleucine.
là những chất bổ sung cho những cây họ đậu, có một tĩ lệ yếu của một số những acides amines thiết yếu.
► Quinoa có một tĩ lệ thấp của prolamines ( là một loại protéine ), nó chỉ ra là một protéine không chất gluten và do đó rất là thú vị cho những ai bị “ bệnh coeliaque ”.
Một số chất dinh dưởng với lượng lớn ( macronutriments ) bao gồm những chất đạm protéines có một hiệu quả mong muốn quan trọng hơn những loài khác. Quinoa, một hàm lượng chất đạm protéine cao, có thể có hiệu ứng trên cảm giác no và trên cùng lượng thức ăn dùng so với loại ngũ cốc khác. Giả thuyết giá trị lợi ích này cần được tiếp tục điều tra.

Nguyễn thanh Vân

dimanche 15 juillet 2012

Cây Keo - Me Keo - Sweet tamarind

Sweet tamarind
Cây Keo - Me Keo
Pithecellobium dulce (Roxb.) Benth.
Fabaceae
Đại cương :
Fabaceae là một họ lớn nhất của gia đình thực vật hiển hoa với 12000 loài được phân loại vào khoảng 600 giống. Họ thường được chia thành 3 họ phụ : Papilionoidae, caeasalpinioidae, và mimosoidae. Pithecellobium là một trong 100-200 loài trong giống phân theo họ mimosoidae và được phân phối ở các vùng nhiệt đới, chủ yếu ở Châu Á và Châu Mỹ có khoảng 10 loài : P. clypearia, Pithecellobium. dulce, Pithecellobium monadelphum, Pithecellobium globosum, P. unguiscati , P. arboreum, P.flexicaule, P. jiringa, Pithecellobium parviflorum và P. Mart  thường xảy ra ở Ấn Độ.
Pithecellobium dulce Benth là một trong những loài quen thuộc, thường được, thường gặp ở Việt Nam được gọi là “ Me keo ” hay “ keo ” nguyên nhân là vị hơi chua như me khi chưa chín .
Gốc tên chung do từ chữ Hy lạp pithekos có nghĩa là con vượn và lobos để cập đến cái vỏ và tên loài dulce trong tiếng Latin có nghĩa là ngọt ngào ám chỉ cơm màu trắng bao bọc hạt ăn được và vị ngọt.
Đồng nghĩa có những tên như hindi : vilayati babul; Tamil : Kodukkapuli; Kannada: Kottampuli, Seemae Hunase; bengali: Dekhani Babul; Marathi: Vilayati Hinch; Telugu : Simachinta; Malayalam : Korukkapuli và Việt nam gọi là Me keo… v…v…
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Cây đại mộc, cao khoảng 10 đến 15 m, nhánh thân có gai nhỏ.
Cuống lá có tuyến ở chót, mang hai (2) cặp thứ diệp, có hai tam diệp không lông .
Gié mang hoa đầu, dày đặc, hoa xanh trắng có lông dày, dài cao 1,5 mm, không cuống, vành cao 3-3,5 mm, tiểu nhụy 30-50. Hoa sản xuất một vỏ nạc ăn được.
Trái quắn, xoắn ốc dài 10 – 18 cm, dài và 1 cm rộng, hột đen láng  từ 6 đến 8, có tử y trắng hay hường. Trái tự khai dọc theo 2 lề đường rảnh bên hong xuống phía dưới.
Vỏ mịn màu xám .
Tử y ăn được, ngọt khi quả chín mùi..
Hạt được phát tán bởi loài chim ăn quả ngọt. Hạt chịu hạn và có thể sống trong những vùng khô cách mực nước biển 300 m nên cây được thích hợp trong sự trồng trọt trên đường phố.
Hoa bắt đầu khoảng 3 – 4 năm và theo mùa ( tháng 1 đến tháng 3 ) trái chín từ tháng 4 đến tháng 7.
Bộ phận sử dụng :
Vỏ rể, vỏ thân, hạt, và  lá  .
Thành phận hóa học và dược chất :
► Thành phần hóa học :
- saponin,
- mp. 175°,
- sapogenin – pithogenin,
- sterol glucoside B,
- Hexacosanol,
- sterol glucoside A,
- praline,
- leucine,
- valine,
- asparagines
- flavone được phân lập từ những hạt.
- glucose được phân lập từ trung quả bì của trái.
- Α-spinasterol glucoside được phân lập từ vỏ cây.
- và Afzelin và quercitrin đã được phân lập từ thân cây. (Rastogi & Mehrotra, 1990 & 93).
- Tannin, 25,36%;
- dầu cố định 18,22%,
- oléine.
- một chất quercitine glycoside đã được phân lập.
● Lá có hiện diện những hóa chất :
- quercitine,
- kaemferol,
- dulcitol
- và afezilin.
- chất đạm thô 29.0% ,
- chất xơ thô 17.5%,
- tro 5.6 %
- cũng như một vài vết nhất định của những khoáng chất cũng được hiện diện :
- calcium Ca 1.14%,
- phosphore P 0.35%.
● Hạt me keo chứa :
- những stéroïdes,
- chất saponines,
-  phospholipides,
-  glycosides,
-  glycolipides
- và những polysaccharides.
- Sản lượng vỏ chứa 37% chất tanins loại mẫu catéchol.
- độ ẫm 13.5% ,
- chất đạm 17.6% ,
- chất béo thô17.1%,
- chất xơ thực phẩm thô 7.8% ,
- tinh bột 41.4%,
- và tro 2.6% .
● Phân tích phần tử y ( lớp nạc bao bên ngoài hạt ) giá trị thành phần :
- độ ẫm 77.9,
- chất đạm protide 0.7,
- chất béo lipide 0.6,
- chất xơ fibre 1.2,
- đường glucide 19.9,
- và vật liệu nguyên tố khoáng 0.7%,
- calcium Ca,13.0mg.,
- phosphore P 54.0 mg.,
- sắt Fe 1.4mg.,
- thiamine, 222mcg,
- riboflavin, 59 mcg.,
- nicotinic acid, 0.36mg.,
- và ascorbic acid, 120 mg./100gm.
Những acides amines cần yếu hiện diện tronng tủ y gồm :
- valine 143 ;
- lysine 178;
- phenylalanine, 41;
- và tryptophan, 26 mg./100g.
Cũng như :
- calcium pectate,
- pectin 0.96% của đường ( chủ yếu là glucose ) phân tích lớp tủ y lớp vỏ ngoài của hạt .
● Phân tích tinh dầu béo cho thấy trị số hóa chất :
- tĩ trọng đặc biệt  0.9044;
- HD, 1.4546: saponification No., 185.3;
- iodine No. 80.7;
- trị số acid  1.2;
- trị số thiocyanogen 56.0

► Nghiên cứu hóa thực vật phytochimique :

  ● Bảy ( 7) saponine gọi tên là pithedulosides AG (1 - 7) đã được cô lập từ những hạt Pithecellobium dulce. Cấu trúc đã được thành lập bởi sự phân tích quang phổ là :
- echinocystic acid 3-O-alpha-L-arabinopyranosyl-(1→ 6)-beta-D-glucopyranoside,
- echinocystic acid,
- và oleanolic acid 3-O-α-L-arabinopyranosyl- (1 → 2) – α - L –arabinopyranosyl - (1 → 6)- beta – D - glucopyranosides,
- và 3 - O – β - D-xylopyranosyl-(1 → 2) – α - L - arabinopyranosyl - (1 → 6) – β – D - glucopyranosides,
- oleanolic acid 3-O-α-L-arabinopyranosy-(1→2)-α-L- arabinopyranosyl-(1→6)-[β-D-glucopyranosyl-(1→2)]-β- D-glucopyranoside,
- và 3 - O – β - D-xylopyranosyl - (1→2) – α - L - arabinopyranosyl-(1→ 6) - [ β - D - glucopyranosyl-(1→2)]-β-D-glucopyranoside..
● Bốn (4) glycosides triterpéniques oléanane-loại mới ,
- Pithedulosides H-K, đã được phân lập từ những hạt giống Pithecellobiup dulce. Cấu trúc đã được thành lập bởi những thí nghiệm RMN rộng lớn và những phương pháp hóa học.
Pithedulosides H, I, J acide bao gồm acide acacique tùy theo hoặc :
- aglycone
- acide carboxylique
- và monoterpène của nó
- hay xyloside monoterpène acide carboxylique như một phần acyle C-21.
 Những nhóm oligosaccharidiques liên kết với C-3 và C-28 đã được xác điịnh như :
▪ α - L - arabinopyranosyl - (1 → 2) - α - L - arabinopyranosyl - (1 → 6) - [ β – D -glucopyranosyl-(1→2)]-β-D-glucopyranosyl,
▪ và α - L - arabinofuranosyl - ( 1→ 4 ) - [ β - D - glucopyranosyl - ( 1→3 ) ] – α - rhamnopyranosyl-(1→2) – β – D - glucopyranosyl ester, theo thứ tự.
● Pitheduloside K đã được thành lập như một acide echinocystic 3-O-glycoside có những chuổi như đường giống như 3 hợp chất đầu tiên .
● Trong cuộc điều tra này, cũng biết được biết đến những hợp chất đã được định như :
- echinocystic acid 3-O-β-D-xylopyranosyl-(1→2)-α-L-arabinopyranosyl-(1→6)-[β-D-glucopyranosyl-(1 →2)]- β-D-glucopyranoside.
● Một (1) chất saponine triterpénoïde mới bisdesmodic, dulcine đã được phân lập từ hạt và đã được định tên như :
- 3 – O - [ β - D - glucopyranosyl (1→ 2) - α - L - arabinopyranosyl] - 28 - O - [ β - D -xylopyranosyl (1→ 6) - β - D - glucopyranosyl] - echinocystic acid.
● acide oléanolique 3-O-β-D - glucopyranosyl (l → 2)- α – L - arabinopyranoside đồng thời cũng thu được.
Những đặc tính của cấu trúc đã được làm sáng tỏ bởi sự kết hợp của phương pháp quang phổ và một số biến đổi hóa học.
Các glycoside cực (polaire) hơn, trên dulcine thủy phân acide cung cấp một aglycone được xác định như :
- acide echinpcystique,
và những monosaccharides từ thủy phân  acide là :
- D-glucose,
- D-xylose,
- và L-arabinose…...v…v…
● Một saponine triterpénique mới được acylé hóa, gọi là pithecelloside, được phân lập từ hạt và có đặc tính là 3-O-acide acacic.
Kulkarni và al nghiên cứu sự phân bố các acides béo GLC trong tổng số các chất béo, phosphorelipideglycolipides của cây Me keo Pithecellobium dulce. Những chất béo chánh hiện diện là :
- palmitique,
- stearique,
- oleique,
- linoleique,
- myristique,
- linolenique
- và acide arachidique.
Tổng số chất béo từ hạt Me Keo Pithecellobium dulce có một hàm lượng quan trọng do bởi acide arachidique (16%), nhưng phosphorelipide và glycolipide không chứa một lượng đáng kể của acide tương tự.
Cyclitol, dulcitol đã được ghi nhận trong dung dịch trích của lá trong acétone của cây ( adinarayana và al )
● Một glycoside isoflavonoidal mới, génistéine 4'-O-μ-L-rhamnopyranoside đã được phân lập từ dung dịch trích từ rể trong éthanolique của cây.
● Một flavonoïde mới :
- 3'-prényl apigénine-7-O-rutinoside, (mp 128 ° c) từ thân Pithecellobium dulce đã được ghi lại bởi ( Saxena et al ).
Dung dịch trích trong alcoolique những lá Pithecellobium dulce được phân biệt trên dung môi và sắc ký  phân đoạn octacosanol cho thấy những đoạn khác nhau :
- b-D-glucoside của một spinastérol,
- một spinastérol
- và du kaempférol-3-rhamnoside.
● Flavonoïde của hạt đã được tìm thấy là một hỗn hợp của :
- kaempférol
- và quercétine.
● Stérol glucoside-A (PF 282-286 ° C), từ nạt trái Me keo Pithecellobium dulce là một hỗn hợp của glucosides của :
- b sitostérol,
- campestérol,
- và stigmastérol.
● Vỏ me keo chứa chất tanin loại catéchol, dạng này thay đổi tùy theo chức năng tuổi của cây.
Chiết xuất trong acétone của vỏ đã được ghi nhận có một thành phần hợp chất  chủ yếu :
▪ 3, 4,7,3 ', 4'-pentahydroxy flavan-un
Thành phần hợp chất có những đặc tính của 2 chất :
- leucoanthocyanidin
- và phlobotannin.
● Các hợp chất :
- chống ung buớu antitumoral,
- b-sitosterol24,
- và campestérol,
- stigmastérol
- và spinastérol đã được ghi nhận trong lõi gổ cây me keo.
● Chiết xuất trong méthanolique của cây Pithecellobium dulce cho một loạt những họp chất hiện diện cả 2 dạng transcis, một cấu hình tương đối của nhóm constitutifs fisetinidol.
Những hợp chất bao gồm :
- extrémité 3 ', 4' ,7-trihydroxy-flavane-3 ,4-diols,
- epifisetinidol-4b-ol,
- epifisetinidol-4a-ol,
- fisetinidol-4b- và 4a-ols,
- và extrémité 3 ', 4', 5 ', 7 - tetrahydroxyflavan-3-ol, robinetinidol.
Đặc tính trị liệu :
- Được xem như chất phá thai Considered abortifacient,
- Chỉ thống anodyne,
- chất làm se thắt astringent,
- chất diệt ấu trùng larvicidal,
- kháng vi trùng antibacterial,
- chống viêm sưng antiinflammatory,
- chất hạ sốt febrifuge,
- trị bệnh tiểu đường antidiabetique.
Vỏ me keo được coi như :
- chất là se thắt astringent.
▪ Lá me keo có tác dụng :
- chất làm se astringent,
- chất làm mềm emollient,
- trị bệnh tiểu đường antidiabetique,
- và chất gây ra sẩy thai abortifacient.
▪ Rể được ghi nhận là có :
- sự hiện diện tương tợ một chất kích thích tố sinh dục nữ oestrogene.
Sử dụng y học:
▪ Một nguyên tắc tương tự như chất insuline được tìm thấy trong .
▪ Tại Mexico, lớp vỏ ngoài tử y của hạt được báo cáo là sử dụng trong việc bào chế thức uống giống như limonade.
▪ Chiết xuất những hạt, trong dung dịch muối mặn cho thấy một phản ứng làm dung huyết ( làm tan máu ) chất kết dính hémolytique agglutinante của máu người..
▪ Nấu sắc dùng như nước tẩy sổ rửa ruột.
▪ Cây me keo được ghi nhận như một đơn thuốc bình dân để chữa trị :
- loét dạ dày thập nhị chỉ tràng gastro-duodénal.
▪ Ngâm trong nước đun sôi những bộ phận khác nhau được sử dụng trong y học truyền thống để chữa trị những bệnh :
- bệnh kiết lỵ như dùng da của thân cây me keo,
- thoát khỏi những rối loạn đường ruột ,
- và những hạt để trị bệnh loét ulcère.
Sự điều tra hóa chất hiện diện trong các bộ phận khác nhau dẩn đến sự phân lập một số lượng lớn các chất biến dưởng mới lạ và thú vị. Một số hợp chất đã được đã được lựa chọn để cho hoạt động sinh học bioactive gọi là active-biologique của cây.
Kinh nghệm dân gian :
● Chứng đi cầu thường xuyên ( thường trong cơ thể con người đã được quy định cho số lần đi cầu trong ngày, nếu nhiếu lần thường xuyên có nghĩa là có vấn đề trong hệ tiêu hóa đường ruột, thường được kèm theo những chứng như tiêu chảy , kiết lỵ ….)
- Nấu sắc vỏ dùng như trà.
● Những lá áp dụng như thạch cao, dùng :
- để giảm đau,
- những vết thương truyền nhiễm do đường sinh dục ( bệnh hoa liễu ) plaies vénériennes.
- giảm sự co giật
● Nấu sắc lá với muối, để chữa trị :
- chứng khó tiêu
- và cũng là chất thuốc phá thai.
● Vỏ cây sử dụng trường hợp :
- bệnh lỵ,
- viêm da,
- và viêm mắt.
● Ở Brésil, me keo, được dùng như một “ thuốc rượu élixir chống bệnh ung thư.
● Tại Mexico, nấu sắc lá cây me keo dùng cho bệnh :
- đau tai,
- bệnh phong cùi,
- đau răng,
- và là thuốc diệt trừ những ấu trùng larvicide.
● Ở Ấn độ, vỏ cây me keo được sử dụng :
- như thuốc làm se thắt trong trường hợp bệnh lỵ dysenterie,
- thuốc hạ sốt fébrifuge.
Cũng được dùng cho những bệnh :
- ngoài da
- và những viêm sưng mắt.
● Lá được dùng như thuốc phá thai.
● Ở Guyan, vỏ của rể được dùng cho :
- bệnh lỵ,
- và như thuốc hạ sốt.
● Trong nấu sắc rể và vỏ ở Haiti được dùng theo đường bên trong nội tạng ( uống ) để chống lại :
- bệnh tiêu chảy,
● Tử y nạc của trái dùng ăn hay uống để ngưng lưu lượng máu chảy trong trường hợp ho ra máu heamoptysis.
● Nước ép của hạt được hít vào bằng mũi để chống :
- tắc nghẽn ngực
- và hạt được phun pulvériser vào bụng chống loét nội tạng.
Nghiên cứu :
● Chống viêm sưng / kháng khuẩn :
Nghiên cứu của những hoa Me keo Pithecellobium dulce đem đến một quercitin glycoside. Hoạt động của chất glycoside flavonol xác định tính chống viêm sưng và kháng khuẩn của cây.
● Những thành phần phénolique / chống oxy hóa : hoạt động nhặt rác những gốc tự do. Hoạt động của những nhà khoa học dân gian Me keo Pithecellobium dulce Benth :
▪ Lá Me keo : dung dịch trích lá trong nước me keo đã tìm ra hợp chất phénolique bao gồm flavonoïdes và cho thấy sức mạnh hoạt động của những gốc tự do nhặt rác.
● Chống viêm sưng Triterpène :
Chất saponine triterpénique, chống viêm của me keo Pithecellobium dulce có đặc tính của một acide bisdesmoside echinocystique. Một chất saponine triterpénoïde mới bisdesmodique, dulcine, đã được phân lập từ hạt Me keo Pithecellobium dulce.
● Gây độc bộ nhiễm thể Génotoxicité : ( sự nhiễm độc bộ nhiễm thể, sửa đổi cấu trúc bộ gen, bước đầu trong quá trình khối u hay ung thư )
Hoạt động gây đột biến mutagène và chống gây đột biến antimutagène trong Y khoa Phi luật Tân và những cây thực phẩm. Trong nghiên cứu trên 138 cây dược thảo để gây nhiễm nhiễm thễ, Me keo Pithecellobium dulce là một (1) trong 12 cây hiện diện génotoxicité được phát hiện trong bất kỳ hệ thống nào.
● Chống bệnh lao / kháng siêu vi trùng :
Hexane, chloroforme và những chiết xuất của lá me keo trong ruợu đã được nghiên cứu cho những hoạt động chống lại những chủng Mycobacterium tuberculose bệnh lao. Chiết xuất trong alcool cho thấy một hoạt động tốt cho ức chế và hoạt động chống siêu vi trùng chống lại những tác nhân gây bệnh thứ cấp.
● Chống bệnh tiểu đường :
Nghiên cứu trích chất từ lá trong rượu và nước của Pithecellobium dulce trong mô hình tiểu đường STZ gây bệnh ở chuột cho thấy hoạt động đáng kể trong dung dịch nước nhiều hơn trong dung dịch rượu, được so sánh với glibenclamide.
● Chống loét / nhặt rác gốc tư do :
Nghiên cứu trong dung dịch ly trích trong hydroalcoolique của me keo Pithecellobium dulce đã tìm thấy có hoạt tính chống oxy hóa và cho thấy hoạt động chống loét có thể với gốc tự do nhặt rác của nó và ức chế H, K-ATPase, hoạt động này được so sánh với oméprazole. Truy tầm hóa thực vật mang lại được những chất :
- flavonoïdes,
- quercétine,
- rutine,
- kaemférole,
- naringine
-và daidzéine.
● Bảo vệ gan hépatoprotecteur :
Nghiên cứu chiết xuất trong nước của me keo Pithecellobium dulce trong mô hình bộ gậm nhấm murine chuột cho thấy hoạt động bảo vệ gan hépatoprotection chống lại CC14 gây ra bởi sự suy yếu, có thể thông qua đặc tính chống oxy hóa. Kết quả này được hổ trợ bởi những kết quả của mô học histologique.
● Chứng trầm cảm của hệ thần kinh trung ương :
Nghiên cứu được đánh giá hoạt động cơ năng vận động những dung dịch ly trích trong nước hay trong rượu của me keo Pithecellobium dulce ở chuột albinos đã cho thấy một sự trầm cảm quan trọng của trung tâm thần kinh SNC, dung dịch trích trong rượu hiện diện có hiệu quả hơn khi so sánh với chlơrpromazine. Hoạt động đã có được do sự gia tăng nồng độ GABA trong não.
● Giảm đau / chống viêm sưng :
Nghiên cứu dung dịch trích trong méthanol cho thấy một hiệu quả quan trọng chống viêm sưng và giảm đau so với các loại thuốc tiêu chuẩn chống viêm và giảm đau.
● Hoạt động phá thai :
Isoflavonoid được phân lập từ chiết xuất từ ​​rễ, thử nghiệm trên chuột cái, cho thấy liều dùng phụ thuộc vào hoạt động của kích thích tố sinh dục nữ bằng cách gia tăng trọng lượng tử cung từ 15,5 ± 0,25 mg trong sự kiểm soát 34,2 ± 068 mg ở chuột bằng đường miệng (uống), được điều trị (1,25 mg / kg / ngày trong 4 ngày..
● Hoạt động kháng viêm
Saponin (chứa hai acide genin, và acide oleanolicacide echinocystique với xylose, arabinose và glucose như phần đường) thu được từ trái của cây me keo Pithecellobium dulce đã được nghiên cứu chống lại giai đoạn exduative ( sự chảy nước từ mô các vết thương bị viêm ) và một phản ứng viêm sưng do sự sinh sản bất thường ở chuột bạch tạng bằng cách sử dụng carrageenin gây ra sự phù nước œdème và gây ra  viêm khớp bởi mô  hình formaldehyde.
● Hoạt động chống độc :
Những polyphénols của dung dịch nước trích của Pithecellobium dulce, đã được thử nghiệm hoạt động ức chế chống lại nọc rắn Naja kaouthia (NK) bởi phương pháp trung hòa chất độc trong ống nghiệm. Dung dịch trích có thể ức chế hoàn toàn chất độc ở nồng độ 4 DL50 và nọc độc hoạt động hoại tử ở liều dùng tối thiểu đến 90 % hoạt động cửa acétylcholinestérase của nọc độc Naja kaouthia với nồng độ tanin thật yếu. DE50 của tanin thực vật trong các hoạt động ức chế nọc độc Nk thay đổi theo chức năng tanin đậm đặc và chất chứa trong dung dịch trích. Sự kết nối phức tạp giữa cobratoxinetanin có thể bị thủy phân hydrolysables hay cô động theo năng lượng thấp nhất đã được đề xuất. Hoạt động chống độc của polyphénols thực vật này bằng cách lựa chọn ngăn chận các thụ thể nicotinic acetylcholine và không chọn lọc kết tủa  những chất đạm protéine của nọc độc vénine đã được đề xuất.
● Hoạt động diệt tinh trùng :
Theo quan điểm về tầm quan trọng của saponine có thể là yếu tố diệt tinh trùng, những saponine của me keo Pithecellobium dulce cũng phải chịu sự chi phối thữ nghiệm cho đặc tính chất diệt tinh trùng spermicide ( Banergi và al )
Chất sapogénine cho thấy hoạt động trong các dung môi pha loãng 0,03 % đối với tinh trùng của người.
Thực phẩm và sản phẩm :
Tử y của me keo, chứa chất ngọt và chất chua khác nhau, thường màu trắng nhưng đôi khi cũng có mà hồng đỏ.
Các hạt và nạc tử y có thể dùng làm thức uống trong kỹ nghệ cũng như trong gia đình hương vị như nước chanh . Hạt được sử dụng rang hay ăn tươi.
Các hạt được dùng trong món ăn cà ri Ấn Độ.. Tại Mexico, Cuba, và Thái Lan quả được thu hoặch và đứng bán bên lề đường.


Nguyễn thanh Vân