Common stinkhorn
Nấm quy đầu thúi
Phallus impudicus
L.
Phallaceae
Đại cương :
▪ Phallus impudicus, còn được gọi
với tên thường dùng như : satyre puant1,
hoặc phallus impudique, đôi khi còn được gọi là Trứng của quỷ œuf du Diable ở trạng thái còn non, là một
loài của nấm đảm khuẩn basidiomycètes
của họ phallaceae.
▪ Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus, được biết đến dưới cái tên thông thường là stinkhorn ( stink = thối thúi ), là một loại nấm có thể nhận biết
được với một mùi làm buồn nôn nauséabonde và có hình dạng thuộc về
dương vật phallique ở trạng thái
trưởng thành, tính năng sau nầy nó đã được thể hiện như danh pháp của nó trong
Anh quốc Angleterre ở thế kỹ XVIIe
siècle.
◦ Ở trạng thái trưởng thành, nó gợi
lên tượng hình của một dương vật cương
cứng pénis en érection, nơi đây
có tên gọi của nó Phallus ( có nghĩa
là dương vật, quy đầu ) không thay đổi kể từ thời Linné, điều nầy hiếm thấy
trong nấm học mycologie - và, như hầu
hết những nấm trong bộ phallales, phát ra một mùi hôi thúi của xác chết trong sự
thối rữa putréfaction (mùi hôi do sự
phóng thích của 2 hợp chất lưu huỳnh sulfurés
:
-
diméthyldisulfure,
- và diméthyltrisulfure,
tình trạng ngộ nhận của khứu giác mimétisme olfactif nầy cho phép nấm thu
hút những côn trùng hoại tử insectes
nécrophages phát tán những bào tử spores
của chúng chủ yếu bởi những động vật zoochorie.
Đầu của Nấm được biết dưới tên « gleba », vật liệu nầy chứa những những
bào tử spores và được chuyên chở bởi
những loài côn trùng bị thu hút bởi mùi hôi thúi, được mô tả giống như thịt con
vật chết charogne.
Mặc dù mùi hôi thúi làm buồn nôn
của nó, nó không độc hại và những nấm trưởng thành được tiêu dùng trong một số
những vùng của nước Pháp và Đức.
▪ Sự phân
phối và môi trường sống.
◦ Đây
là một nấm rất phổ biến và được phân bố rộng rãi trong Châu Âu Europe và trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, nơi đây nó được tìm
thấy trong những môi trường sống giàu những mảnh gỗ vụn như là trong những khu
rừng và những khu vườn phủ rơm.
Nó xuất
hiện từ mùa hè đến cuối mùa thu.
◦ Được
phổ biến trong tất cả cùng Bắc bán cầu hémisphère
nord, Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus phát triển trong Châu Âu từ
cuối mùa xuân đến mùa thu, trong những rừng gỗ cứng như cây
có nhựa résineux, thường nhất ở chung quanh những chủng cây già nhưng
cũng ngoại lệ trên những chủng cây
già hoặc những trên những thân cây mục nát.
Nấm Quy
đầu thúi Phallus impudicus có thể được tìm thấy hầu hết trên khắp vùng Châu Âu Europe và Bắc Mỹ Amérique du Nord, và nó cũng được thu thập trong Châu Á Asie (bao gồm trong Tàu, Đài Loan Taiwan, và trong Ấn Độ Inde), ở Costa Rica, trong Islande, Tanzanie, và trong Đông Nam
nước Úc Australie.
◦ Trong
Bắc Mỹ Amérique du Nord, nó được phổ
biến nhất ở phìa tây sông Mississippi; loài Ravenel's
stinkhorn (Phallus ravenelii) được phổ biến hơn ở phía Đông.
Nấm nầy
có liên quan với gỗ mục nát, và như vậy, nó thường gặp nhất trong những rừng lá
rụng, nơi đây đậu quả fructifie từ
mùa hè đến cuối mùa thu, mặc dù nó cũng có thể được tìm
thấy trong rừng lá kim conifères hoặc
thậm chí trong những bải cỏ như những công viên và những khu vườn.
Nó cũng
có thể hình thành của những sự kết hợp rễ nấm mycorhiziennes với một số cây nhất định.
▪ Sự phát tán của những bào tử spores
◦ Cấu
trúc đậu quả fructifère bên trên đỉnh
ngọn và màu trắng với một đầu hình chóp nhờn màu olive đậm.
Sự phát
tán của những bào tử spores là khác
với hầu hết những loại nấm “ điển hình” lan truyền bào tử của chúng vào trong
không khí.
◦ Những
stinkhorns Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus tạo ra, thay vào đó một khối bào
tử spore dính trên đỉnh đầu gleba của chúng có một mùi mạnh và vị
ngọt của xác con vật hôi thúi charogne
để thu hút những loài ruồi mouches và
những loài côn trùng khác.
▪ Những
sản phẩm hóa học mùi hôi thúi trong đầu nấm gleba Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus bao gồm :
- méthanethiol,
- sulfure d'hydrogène,
- linalol,
- trans-ocimène,
- phénylacétaldéhyde,
- sulfure de diméthyle
- và trisulfure de diméthyle.
Thành
phần cuối cùng nầy được tìm thấy phát ra bởi những vết thương ung thư nấm plaies cancéreuses fongiques.
Những
thân đậu quả fructifications trưởng
thành có thể được ngủi từ một khoảng cách xa đáng kể trong những khu rừng, và ở
những nơi gần lân cận, hầu hết mọi người tìm thấy một mùi hôi thúi cực kỳ đáng
kinh tởm.
Những
loài ruồi đậu trên đầu gleba và hành
động nầy, thu thập một khối lượng của bào tử spores trên những chân của nó và mang đi ở những nơi khác.
Một
nghiên cứu chứng minh rằng những chủng ruồi mouches
(loài Calliphora vicina, Lucilia caesar, Lucilia ampullacea và Dryomyza anilis)
cũng ăn chất nhờn trên đầu nấm gleba, và ngay sau khi rời khỏi thân
quả, nó sẽ thải của những phân lỏng có chứa những bào tử dày dặc.
Nghiên
cứu cũng cho thấy rằng những loài cánh cứng coléoptères (Oeceoptoma thoracica và Meligethes viridescens) được
thu hút bởi nấm, nhưng dường như đóng vai trò ít quan trọng trong việc phát tán
của những bào tử bởi vì nó có xu hướng ăn
những mô sợi nấm tissu hyphal của
thân quả corps fructifère.
▪ Nó
cũng hiện có một mối liên hệ sinh thái écologique
có thể có giữa những Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus và loài động vật có vú
ăn thịt chồn blaireau (Meles meles).
Những
cơ quan đậu quả fructification thường
tập hợp trong một khoảng không gian từ 24 m đến 39 m của những lối vào; những nơi
nầy thường chứa một nguồn cung cấp xác chết của loài chồn cadavres de blaireaux - tĩ lệ chết của những đàn chồn con là cao và
sự tử vong có khả năng cao xảy ra trong những tộc đoàn.
◦ Thân
đậu quả fructification của một số
lượng lớn stinkhorns Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus thu hút một số lượng
lớn quần thể của loài đôm đốm (Calliphora và Lucilla sinh sản trên xác động vật
hôi thúi charogne), điều nầy bào đảm
loại bỏ nhanh chóng những thân thịt chồn carcasses
de blaireaux, và cũng loại bỏ một nguồn tiềm năng bệnh của tộc đoàn chồn blaireaux.
Hiệu
quả nhuận trường laxatif của đầu nấm gleba Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus làm giảm khoảng cách của thân đậu quả corps fructifère đến nơi mà những bào tử được đặt để, bảo đảm tiếp
tục sản xuất mật độ cao của stinkhorns Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus
Thực vật và môi
trường :
● Mô tả
thực vật :
Điều nầy có một điểm tương đồng với
Nấm morille như (Morchella esculenta), đôi khi nó bị nhấm lẫn.
Mức độ tăng trưởng của Nấm Quy đầu
thúi Phallus impudicus được đo với mức độ 10–15
cm mỗi giờ.
Thân quả corps du fruit trong khi tăng trưởng có khà năng thực hiện cho đến 1,33
kPa của áp lực. Một lực đủ để cây nấm đẩy xuyên qua lớp nhựa đường..
Đôi khi
được gọi là “ Trứng phù thủy œuf de
sorcière, Nấm Quy đầu thúi Stinkhorn chưa trưởng thành có màu trắng nhạt
hoặc màu hồng nhạt, có hình quả trứng,
và thường từ 4 đến 6 cm x 3 đến 5 cm.
Một
thân đậu quả corps de fructification chưa
trưởng thành ("trứng") cắt theo chiều dọc, gồm có :
◦ Ở bên
ngoài, một bao chân nấm volva màu trắng nhạt dầy, cũng được biết
dưới tên péridium ( lớp bao bên ngoài của thân đậu quả ), bao phủ đầu nấm gleba phủ đầy chất keo gélatineuse màu olive. Gleba nầy có chứa những bào tử spores và sau đó mùi hôi thúi thu hút
những loài ruồi mouches;
◦ Bên trong lớp nầy là lớp màu xanh lục sẽ
trở thành «đầu» của thân quả corps
fruitier mở rộng, và bên trong nó tìm thấy cấu trúc màu trắng gọi là đế nấm
réceptacle (thân khi nó được mở rộng ),
cứng, nhưng có một cấu trúc xốp thoáng khí như bọt biển éponge.
▪ Quả bào tử Sporophore ( mang
bào tử ) : phát triển dưới đất, dưới hình thức quả trứng từ 3 đến 6 cm với bên dưới của nó của những sợi khuẩn ty cordons mycéliens trắng.
Trứng
sinh ra một loại nấm với một mũ nấm hình nón conique dưới dạng như một tuyến đầu nấm Gléba, một loại chất keo
gélatine, chất nhày visqueuse màu
olive đen nhạt olivacé noirâtre, tạo ra một mùi hôi khó chịu odeur désagréable, đặc trưng của xác
chết cadavérique, đầu nầy được cưu
mang bởi một chân nấm màu trắng nhạt pied
blanchâtre, bên dưới còn lại trong bao của trứng œuf bao chung quanh theo cách của một màng bao chân nấm volve.
◦ Trứng œufs : trở thành những Nấm Quy
đầu thúi stinkhorns trưởng thành rất nhanh, trong một hoặc hai ngày.
Nấm Quy
đầu thúi stinkhorn trưởng thành từ 10 đến 30 cm. cao và từ 4 đến 5 cm. đường
kính, tăng trưởng vượt lên của một mũ hình nón từ 2 đến 4 cm. cao được bao phủ gleba
nhầy màu nâu xanh lục nhạt.
Ở những
nấm già nhất, chất mùn cuối cùng được loại bỏ, làm lộ ra một bề mặt trần trụi
màu vàng nhạt đánh dấu những điểm nhỏ piquée
và có đường rạch.
◦ Trong
giai đoạn đầu tiên, Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus hiện diện dưới hình thức
của một trứng kéo dài œuf oblong, từ 3
đến 6 cm, chôn trong đất sau đó trồi lên trên mặt đất và kéo dài bởi một
dây dài khuẩn ty cordon mycélien.
◦ Khi
cắt, quả trứng cho thấy nhiều phiến mỏng đi về phía trung tâm :
- trước hết một bao bên ngoài,
- lớp bao bào tử phòng péridium,
sau đó một lớp dầy trong suốt và chất keo gélatineuse,
- kế tiếp một lớp đậm hơn và đặc hơn,
- trong tương lai là đầu nấm gléba,
- và cuối cùng đến trung tâm, một thân trắng,
- và trong tương lai là một chân stipe.
▪ Mũ nấm : từ 3 đến 4 cm, hình nón, cắt
ngắn ở phía trên đỉnh bởi một vòng nhỏ, tổ ong, màu trắng nhưng hoàn toàn được
bao phủ lúc bắt đầu của một đầu nấm gléba
màu xanh lục olive đến màu đen nhạt.
Điều
nầy, thu hút những loàu ruồi mang nó đi, phát tán cũng như những bào tử spores,
và để trần những phế nang trắng alvéoles blanches.
▪ Chân nấm
: từ 10 đến 20 cm trên 2 đến 4 cm
đường kính, kéo dài và mỏng dần dần hướng về bên trên, trắng, phế nang, rỗng,
có hang hốc và dễ vỡ - nó thường ngả đổ xuống trong vài ngày, chạn nấm được bao
bởi một màng volve, còn lại của trứng
vỡ ra.
▪ Nạt thịt
: màu trắng và xốp, không mùi chính bản thân nó. Mặc khác những đầu nấm gléba, trong khi, sự lan truyền mùi hôi
thúi của tử thi cadavre mà người ta
ngửi thấy nhiều ở chung quanh trước khi nhìn thấy nấm.
▪ Những
bào tử spores có một dạng hình ellip thuôn dài với những kích thước từ 3–5
đến 1,5–2,5 µm.
● Quá trình tăng trưởng và phát triển của
Nấm.
Trước
khi rời khỏi đất, nó được bao bọc hoàn toàn trong màng bao valva của nó và thể hiện một quả bóng màu trắng nhạt, hình dạng và
khối lượng của khoảng một trứng.
Khối
lượng nầy mềm và khá nặng, và thường được gọi dưới tên “ trứng của quỷ và của những phù thủy”.
Nếu
người ta cắt theo chiều dọc, người ta chú ý những phần sau đây, đi từ ngoài vào
trong :
1° Một
màng màu trắng, khá cứng, hình thành một lớp vỏ bao ngoài cùng của nấm và liền trơn không có bất kỳ sự nối tiếp nào.
2° Một
khối màu vàng nhạt gần như trong suốt và như chất keo nhờn gélatineuse; nó hình thành một lớp dầy đặc, bao phủ những phần bên
trên và bên hông của trứng nấm, nhưng bị gián đoạn phía bên dưới đáy nơi đây nó
kết thúc trong cul-de-sac ( không thể
thoát ra ).
Chất
nầy mang lại cho nấm trọng lượng và tính nhất quán consistance của nó. Bên dưới được hình thành một đĩa có bề mặt lõm
và bao gồm một mô màu trắng và nhỏ gọn, trong đó được gắn của những rễ nhỏ radicules.
3° Một
màng tương tự với màng bên ngoài cùng và lót mặt trong của lớp chất keo gélatineuse, vì vậy khối lượng được duy
trì giữa 2 màng cứng và đề kháng..
4° Một
màng rất mỏng, một loại màng trắng nhạt, thường khó khăn nhận biết, được đặt liền
tức khắc dưới màng bên trong của màng bao chân nấm valva và hình thành một màng bao chân nấm bên trong valve interne và một phần.
5° Mũ
nấm, khi người ta cắt dọc quả trứng, cho thấy dưới dạng 2 tấm màu xanh lục nhạt
mảnh thon ở 2 cực của chúng và được thực hiện hướng về phía trung tâm. Nó bao
gồm một chất màu xanh lục chứa trong một nang
rộng hình đa giác larges alvéoles
polygonales;
6° Đế
nấm hình thoi, rỗng của một ống rộng trải ra bởi màng bao bên trong.
Nó hình
thành bởi một loại mô tế bào tissu
cellulaire rất lỏng lẽo, nhưng khép lại sau đó, như những nết nhăn và nén
ép mạnh. Sự cung ứng nầy được giải thích dễ dàng do sự phát triển nhanh chóng
của nấm.
Đây là
những phần khác nhau bao gồm Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus với trạng thái
viên bóng boule. Như người ta nói,
đĩa bên dưới của nó cung cấp những rễ nhỏ radicules
dài, nhiều và đề kháng, không gì khác hơn là những sợi khuẩn ty mycélium.
Màng
bao chân nấm valva mất vài ngày để đi
đến trưởng thành; khi đạt đến điểm nầy, nó bị xé rách một cách dữ dội, thường
xuyên.
Sau đó,
một nấm mới ra đời, sau khi xé rách bao nhốt trứng không đồng đều của nó, lao
ra khỏi vật chứa nầy và được sinh động bởi ánh sáng, tăng trưởng nhanh chóng
một cách kinh ngạc : chỉ trong chưa dầy 10 phút, nó có thể đạt được một sự phát
triển hoàn chỉnh, sau đó một xuất hiện một nấm mới.
Cuống
nấm kéo dài ra, mập rỗng, phồng lên ở phần giữa và thon dần về phía đỉnh, nó
như một cột bông đá spongieux, và bề
mặt của nó rỗng với một số lượng những nang nhỏ alvéoles.
Nó được
gắn yếu ớt vào đáy của màng bao chân nấm valva
và xuyên qua mũ nấm và kết thúc. ◦ Để
réceptacle, hình thành ở phần trên một đĩa trắng nhỏ hiện
diện một lỗ thông với đường ống bên trong, nhưng thường được đóng lại bởi một
mảnh vỡ của màng bao chân nấm bên trong valve
interne.
◦ Mũ
nấm ở đầu cuối tương đối nhỏ và có dạng hình chóp nón, hình thành bởi một tấm
mỏng nhỏ bao gồm :
- mặt
trong là hợp nhất và sáng như ngọc trai màu trắng,
- mặt
ngoài của nó có một số tế bào nang đa giác alvéoles
polygonales chứa đầy bởi một chất mềm và màu lục nhạt được gọi là chất nhựa
trắng latex.
Người
ta cũng nhận thấy rằng, trên mép chung quanh mũ nấm, một viền trắng nhỏ hình
thành bởi một nếp gấp của mặt trong. Một sự xuất hiện của Nấm Quy đầu thúi
Phallus impudicus tiến đến sự trưởng thành, nhưng nấm nầy tự hủy hoại gần như
nhanh chóng mà nó đã phát triển.
Chẳng
mấy chốc, lớp phủ màu xanh lục nhạt của mũ nhuộm màu đậm hơn và được giải quyết
trong một chất bán lỏng, hôi thúi fétide
và màu đen nhạt chảy ra từng giọt xuống đất, dẩn đến sự nẩy mầm của chúng.
Mũ nấm
không có lớp bao phủ của nó, không còn hiện diện một khung mỏng với bề mặt hình
đa giác. Cùng lúc đó, cuống nấm càng ngày càng phồng to, đầu của chúng nghiêng
che khuất bởi mũ nấm cuối cùng tự chúng tách rời ra, cuối cùng toàn bộ cây nấm
rơi ngã vào đống rác.
◦ Theo Bulliard,
nhựa latex sẽ bao gồm những cơ quan
sinh sản của nấm. Những vô số bào tử spore,
ban đầu tròn, kế đó hình ellilp sẽ gắn vào những thành vách của những nang alvéoles, và những khoảng trống sẽ được
lấp đầy bởi những chất nhầy mucilagineuse
không có vật gì khác ngoài chất lỏng thụ tinh.
Sự thụ
tinh fécondation sẽ được diển ra ngay
lập tức, tại thời điểm sự bể vở của những màng bao chân nấm valves, và chất nhựa latex, chảy ra trên mặt đất, bảo đảm sự
nẩy mầm của những bào tử spores.
Những
bào tử nầy spores, không phải, chỉ là
phương tiện sinh sản duy nhất của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus, bởi vì nó
thường có, ở rễ của nó, một củ nhỏ được chỉ định thay thế nấm nguyên thủy champignon primitif.
Sự xuất
hiện của loài thực vật khỏa tử cryptogame
nầy, mùi hôi thúi của tử thi cadavéreuse
bốc ra, không tạo ra sự cám dổ của những người tài tử nghiệp dư về nấm.
Thật
vậy, người ta cho rằng những loài thú hoang dã tìm kiếm nó khi nó ở trong trạng
thái quả trứng và những những con mèo rất thích nó, thậm chí sau khi nó phát
triển hoàn chỉnh..
▪ Ngoài
ra, những côn trùng insecte đã tham
lam nuốt ăn những mủ latex, điều nầy có thể là nguyên nhân
gây ra sự khang hiếm của giống nấm nầy.
Cuối
cùng, nhiều tác giả báo cáo rằng những nông dân ở một số vùng ở Đức Allemagne làm khô nấm nầy và nghiền nát
thành bột và được quản lý dùng cho gia súc, khi họ muốn kích thích hoạt động
sinh sản của những con vật nầy.
Bộ phận sử dụng :
Toàn
nấm cho những mục đích khác.
▪ Tiêu
dùng ăn được duy nhất chỉ :
- Trứng nấm ( giai đoạn nấm chưa mở ra ).
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ Những hợp chất dễ bay hơi được
phóng thích của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. Ở những giai đoạn trưởng
thành khác nhau của nó, như là :
- dạng « trứng oeuf» chưa trưởng thành immature,
- thân quả trưởng thành,
- thân quả quá trưởng thành, quá già.
đã được
khảo sát.
▪ Tổng
số của 59 thành phần đã được xác định với sự giúp đở của phương pháp vi ly
trích giai đoạn rắn trong khoảng không gian đầu headspace solid-phase microextraction (HS-SPME) tiếp theo sau bởi
sắc ký hơi phổ khối chromatographie en
phase gazeuse-spectrométrie de masse (GC-MS).
Nghiên
cứu cho thấy một sự khác biệt của phẩm chất được xem như những thành phần chủ
yếu, tùy theo những giai đoạn trưởng thành stades
de maturité của chúng.
- trisulfure de diméthyle,
- cis-β-ocimène,
- trans-β-ocimène,
- 2-phénylacétladéhyde,
- và 2-phényléthanol
là
những chất dễ bay hơi phong phú nhất trong những đậu quả trưởng thành fruits mûrs.
▪ Oligosulfures de diméthyle, đóng góp
quan trọng nhất cho mùi mạnh và mùi hôi buồn nôn nauséabonde của những thân quả corps
de fruits của stinkhorn Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. đã
vắng mặt ở những giai đoạn trứng ovoïdes
và quá trưởng thành trop mûrs
Sự phát
triển nhanh chóng của thân đậu quả corps
fruitiers của Stinkhorn (Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers.), Ngay
cả sau khi thu hoạch, được thể hiện bởi những sự thay đổi quá trình chuyển hóa
chất biến dưởng métaboliques quan
trọng trong nấm trong một khoảng thời gian ngắn (giờ).
▪ Mặc dù, sự phong phú của những
thành phần dễ bay hơi thay đổi đáng kể trong quá trình trưởng thành maturation và già, nghiên cứu nầy chỉ tập
trung duy nhất trên những thay đổi phẩm chất qualitatifs.
Mặc dù
sự phong phú của các chất bay hơi thay đổi đáng kể trong quá trình chín và lão
hóa, nghiên cứu này chỉ tập trung vào những thay đổi về chất.
Tổng số
số lượng của hợp chất dễ bay hơi volatils
ở giai đoạn dạng trứng ovoïde của stinkhorn
Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. là rất thấp.
▪ Những
thành phần chủ yếu là :
- 1,4-diméthoxybenzène,
có một
mùi thơm của bông hoa nhẹ parfum floral
(Dötterl và al., 2005), tiếp theo bởi :
- 3-octanone,
- 2-hexanone,
và một loạt những alcanes :
- (undécane, dodécane, tridécane, tétradécane).
▪ 3-octanone
đã được ghi nhận như một trong những đóng góp chánh vào hương vị đặc trưng của
những nấm (Fischer và Grosch, 1987, Pyysalo và Suihko, 1976, Venkateshwarlu và al.,
1999) do mùi bơ beurre dịu ngọt và
nấm (Cho và al., 2006)
▪ Những
hợp chất mùi lưu huỳnh sulfuriques (oligosulfures de diméthyle),
là hợp chất hấp dẫn những loài côn
trùng insectes, đã vắng mặt bởi vì
nắp được bao phủ rộng rãi chứa những bào tử và được bao bọc tronng một màng của
nấm.
Tuy nhiên, mùi hôi khó chịu có thể
tiến hóa khi chuẩn bị chế biến của những «trứng»
của Nấm Quy đầu thúi stinkhorn. 22 hợp chất dễ bay hơi, bao gồm :
- những oligosulfures de
diméthyle,
- 2-phénylacétaldéhyde,
- 2-phényléthanol,
- photocitral B,
có thể
được hình thành khi quá trình phân hủy của citral (Szente và Szejtli, 1987),
◦ Hợp chất 2-phényl-2-buténal,
là một
chỉ số tiềm năng của cường độ rang torréfaction
(Fadel và al., 2006),
và một
số nhất định terpénoïdes) đã được xác định trong những thân quả corps fruitiers trưởng thành.
◦ Những chất như :
- 2- phénylacétaldéhyde,
- và 2-phényléthanol,
là 2
hợp chất mùi thơm quan trọng có nguồn gốc từ phénylalanine (Tieman và al.,
2007), cũng đã được ghi nhận như chất thu hút những loài côn trùng insectes (Ragusoa và al., 2003, Zhu và al.,
2005).
▪ Những
terpénoïdes chánh đã đuợc xác định là :
- cis-β-ocimène,
- và trans-β-ocimène,
thường
được mô tả như trách nhiệm của những mùi của hoa tươi florales fraîches
(Füssel và al., 2007).
▪ Một
loạt những chất oligosulfures de
diméthyle, như là :
- (disulfure de diméthyle,
- trisulfure de diméthyle,
- tétrasulfure de diméthyle)
đã được
xác định như là :
- trisulfure de diméthyle,
là mạnh nhất.
▪ Người
ta biết rằng những thành phần mùi hôi lưu huỳnh odorants sulfuriques hình thành trong quá trình phân hủy của những :
- acides aminés soufrés cystéine,
- cystine,
- và méthionine (Herbert và al., 1971, Kiene và Hines,
1995, Mackie và al., 1998).
Mặc dù
nó hiện diện trong mức độ phong phú thấp hơn, những hợp chất lưu huỳnh sulfuriques
nầy góp phần quan trọng trong việc gây ra mùi hôi buồn nôn nauséabonde của những thân đậu quả corps fruitiers trưởng thành, bởi vì giá trị “ ngưỡng giác quan seuil sensorielles ” của chúng là rất thấp (Golovjna và Rothe, 1980,
O’Neill và Phillips, 1992).
▪ Thành
phần trong hợp chất dễ bay hơi volatils
của những thân đậu quả corps de fruits
trưởng thành quá mức trop mûrs khác
nhau đáng kể so với những thân đậu quả corps
de fruits trưởng thành mûrs.
▪ 41 thành
phần đã được xác định, những thành phần dễ bay hơi chánh volatils là :
- acide acétique,
- 2,3-butanediol,
- 2-phényléthanol,
- và 4-méthylbenzaldéhyde,
cũng
được ghi nhận như chất thu hút những loài côn trùng insectes (Miles và al., 1975).
▪ Ngoài
ra, một số nhất định của những thành phần đóng góp khác quan trọng cho hương
vị, như là :
-. những esters phénéthyliques,
- và những alkylpyrazines,
đã được xác định.
▪ Những
oligosulfures de diméthyle chỉ được
tìm thấy dưới hình thức của những vết nhỏ, bởi vì phần lớn của những chất nhầy
có mùi hôi boue odorante đã bị mang
đi bởi những côn trùng insectes.
Do đó,
những thân đậu quả corps de fruits quá
chín mùi trop mûrs có thể có một mùi
hương thơm rang arôme torréfié nhẹ tốt hơn trên một mùi hôi khó chịu odeur désagréable.
Đặc tính trị liệu :
▪ Nấm
Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. có thể làm giãm những triệu chứng
của :
- một sự tắc nghẽn obstruction
mạch bạch huyết dai dẳng lymphatique
persistante.
▪ Cơ
chế hành động của trích xuất của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus có thể được
giải thích bởi :
- những cytokines,
- và sự điều hòa của những phân tử molécules bám dính adhésion
có liên quan đến viêm inflammatoires,
- sự giãm của độ nhờn viscosité
của những chất chảy ra exsudats,
- sự tái tạo mạch (sự thông nối mạch) recanalisation của những mạch bạch huyết vaisseaux lymphatiques tắc nghẽn obstructifs,
- sự giãm áp suất bên trong của những mô tế bào,
- và thể tích của cánh tay.
▪ Một
nghiên cứu khác mang trên hiệu quả của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex
Pers. trong dự phòng huyết khối thromboprophylaxie
ở những bệnh nhân mắc phải :
- của một bệnh ung thư vú cancer du sein đang chịu một điều trị hóa trị liệu pháp chimiothérapie,
- và một chữa trị kích thích tố nội tiết hormonal.
▪ Huyết
khối tĩnh mạch thromboembolique veineuse,
sự hình thành một cục máu đông caillot
sanguin trong một tĩnh mạch, và là một nguyên nhân thường xảy ra gây tử
vong ở những bệnh nhân mặc phải bệnh :
- ung thư vú cancer du sein.
Nấm Quy
đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. là một phương thuốc dân gian cho :
- bệnh một ung thư vú cancer
du sein tiến triển từ thời cổ đại antiquité.;
những
bệnh nhân mắc một bệnh định kỳ maladie
récurrente thường được duy trì bằng thuốc chống đông máu anticoagulants trong suốt cuộc đời của
họ.
Một
nghiên cứu mới điều trị dự phòng prophylactique
là cần thiết, cho thấy rằng những trích xuất của Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus L. ex Pers. có thể làm giãm nguy cơ của điều kiện nầy bằng cách làm
giãm tỹ lệ của :
- sự kết tập tiểu cầu agrégation
plaquettaire.
Ngày
nay có thể suy đoán rằng sự tiêu dùng lâu dài Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus L. ex Pers. có thể ngăn ngừa :
- những biến chứng complications
huyết khối tắc mạch thromboemboliques
không
phản ứng phụ ở những bệnh nhân mắc bệnh :
- ung thư vú cancer
du sein
và có
thể có một tiềm năng như một chất dinh dưởng ngăn ngừa hỗ trợ.
▪ Nó
được sử dụng trong thời trung cổ époque
médiévale như một phương thuốc dân gian chống lại :
- bệnh thống phong goutte
và như
một lọ thuốc tình yêu potion d'amour.
▪ Nấm
Quy đầu thúi Phallus impudicus là thuốc chữa trị chứng bệnh suy nhược thần kinh
tình dục neurasthénie sexuelle với :
- chứng bất lực impuissance,
- chóng mặt vertiges,
- và rối loạn tiêu hóa dạ dày-ruột gastro-intestinaux.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Trong
miền Bắc Monténégro, những người nông dân chà xát Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus L. ex Pers. lên trên cổ những con bò đực taureaux trước những cuộc thi đấu bò concours de taureaux để cố gắng làm cho chúng mạnh hơn.
Nó cũng
được dùng để nuôi cho những con bò đực con jeunes
taureaux bởi vì nó được xem như :
- một thuốc kích thích tình dục mạnh puissant aphrodisiaque.
Vào năm
1777, John Lightfoot tôn kính đã viết rằng, những dân cư Thuringe đã gọi những Stinkhoms
Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus chưa mở ra là “ những trứng của quỷ œufs de
fantômes hoặc yêu quái démons ”
và sấy khô chúng và nghiền chúng thành bột trước khi pha trộn chúng vào trong
những linh hồn esprits như :
- thuốc kích thích tình dục aphrodisiaques.
▪ Còn những trích dẫn của những
chuẩn bị chế biến truyền thống nầy của những nước vùng Baltique pays baltes, dựa trên Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. lên men !!!
Loại nấm nầy nổi tiếng với hình
thức gợi cảm ( liên tưởng ) forme
évocatrice và bởi mùi hôi buồn nôn odeur
nauséabonde được cung cấp một chân
nấm mà người ta thực hiện cho sự lên men tùy theo một qui trình truyền
thống trong Lituanie.
Sản phẩm thu được được dùng trong
chữa trị truyền thống :
- bệnh “
ung thư cancer ”,
và trong một thời gian dài.
Những nhà nghiên cứu lituaniens
đã thực hiện một nghiên cứu khác chứng minh những đặc tính :
- chống
ung thư anti-cancéreuses
của những chế phẩm hơi gợi tình peu
ragoûtante nầy.
▪ Nấm Quy đầu thúi
Phallus impudicus L. ex Pers., chữa trị :
- bệnh huyết khối thrombose.
▪ Là một thuốc :
- kích thích tình dục aphrodisiaque.
▪ Nấm
Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. ) đã được sử dụng trong Châu Âu, để
chữa trị :
- bệnh thấp khớp rheumatisme,
- động kinh épilépsie,
- bệnh thống phong goutte,
- và ung thư da cancer
de la peau,
▪ Những
người tàu đã thu hút sự chú ý của họ
đối với loại nấm nầy như một phương thuốc chống lại :
- ung thư biểu mô môi carcinome
de la lèvre.
▪ Ngoài
ra, còn có những thông tin trên Dr Karo ở Đức Berlin người đã chữa trị thành
công cho :
- ung thư biểu mô da carcinome cutané,
- và ung thư nội tạng cancer des internes với Nấm Quy đầu thúi
Phallus impudicus.
▪ Trong những nước Châu Âu Européens, y học dân gian (Stinkhorn Nấm
Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers.) thường được sử dụng như một nước ép
jus của đậu quả tươi của nấm.
▪ Những
người La Mã cổ
đại, đã dành nấm nầy cho Cerera - nữ
thần déesse của sinh sản fertilité. Những người Đức Allemands đã đặc tên là “một trứng của
phù thủy œuf de sorcière”.
▪ Ở
thời Trung cổ Moyen-âge, nó được sử
dụng để chuẩn bị chế biến cái gọi là “ rượu mùi tình yêu liqueur amoureuse".
Nấm nầy
được sử dụng bởi những ngưòi charlatans
( lăng băm, người bán thuốc dạo ) từ thời cổ đại Antiquité.
▪ Trong
Áo Autriche, nó được gọi là “morelle podagra”. Y học dân gian Baltique ( cộng đồng ở đảo
Île-du-Prince-Édouard và slave ( một
trong những chủng tộc ở Đông và Bắc Âu ….) đề nghị sự sử dụng Zemestauki (Nấm
Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers.) cho :
- những đau bụng douleurs
abdominales,
- những bệnh thận maladies
rénales,
để tắm
và chữa trị :
- những vết thương loét plaies,
như một
phương thuốc chống :
- bệnh thấp khớp rhumatismes,
- và mắc bệnh thống phong ( bệnh goutte ) podagre.
▪ Những
thí nghiệm gần đây và những nghiên cứu lâm sàng cliniques cho thấy rằng nước ép jus
của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. có một hoạt động :
- chống huyết khối antithrombogène,
điều
nầy rất quan trọng trong sự ngăn ngừa của những bệnh :
- huyết khối thromboemboliques trong bệnh ung thư cancer.
▪ Những khối u ác tính tumeurs malignes gây ra một xu hướng
tăng cao về khả năng :
- đông máu coagulabilité sanguine,
- và gây ra huyết khối thrombogenèse.
Nó được thành lập rằng hoạt động :
- chống huyết khối antithrombogène
của thành vách mạch máu paroi vasculaire
ở những
bệnh nhân bệnh ung thư cancéreux được
giãm.
▪ Sự
rối loạn của những đặc tính chức năng của thành vách mạch máu paroi vasculaire hỗ trợ cho sự thấm nhập
của nó vào trong những khoảng không gian ngoài mạch máu extravasculaires và thích ứng với xác xuất của vị trí di căn locus métastatique.
Những
tiều cầu kết dính vào bề mặt của những tế bào khối u tumorales tăng cường sức đề kháng của chúng.
▪ Yếu
tố hoạt động chánh là polysaccharide
PL-2 hiện diện trong nước ép jus của Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus (PhJ), có một hiệu quả trên :
- sự kết tập bệnh lý tiều cầu agrégation pathologique plaquettaire trong thời gian quá tình ung
bướu khối u tumoral.
Nghiên cứu :
● Nước ép jus PhJ Nấm Quy đầu thúi
Phallus impudicus L. ex Pers. co thể
tạo ra một hành động ngăn ngừa nhắm vào mục đích làm giãm :
- sự phổ biến của những
tế bào ung bướu cellules tumorales trong
cơ thể organisme.
▪ Những cuộc điều tra đã được thực
hiện trên những chuột đực rats mâles
Wistar. Dòng tế bào ung thư sarcome 180 đã
được tiêm vào đường trong cơ bắp intramusculaire.
Những
mức độ của :
- sự kết tập tiểu cầu agrégation
plaquettaire,
- sự kết tập tiểu cầu nội mạch agrégation intravasculaire tự phát của những tiểu cầu spontanée des plaquettes,
- hoạt động chống kết tập activité antiagrégative,
- và chống đông máu anticoagulante
của thành vách mạch máu paroi vasculaire
đã được
xác định trong máu của những động vật.
Những
kết quả cho thấy rằng khối u ác tính Sarcome 180 được cấy vào trong những động
vật với sự giúp đở gia tăng sự kết tập tiểu cầu agrégation plaquettaire 53% với một sự gia tăng từ 2, 3 lần của
hoạt động chức năng của tiểu cầu plaquettaire
fonctionnelle.
▪ Hoạt
động chống kết tập anti agrégative của
thành vách mạch máu paroi vasculaire giãm
25% và hoạt động chống đông máu anticoagulante
giãm 29%.
Nó đã
cho thấy rằng nước ép nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus PhJ gây ra một hiệu quả trên :
- những chức năng của tiểu cầu fonctions plaquettaires,
- và trạng thái của thành vách mạch máu paroi vasculaire ở những chuột mang khối
u tumeurs.
Nước ép
jus Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus PhJ có thể thực hiện một
hành động phòng ngừa nhằm mục đích làm giãm sự lan truyền của những tế bào ung
bướu khối u tumorales trong cơ thể.
▪ Một
điều tra khác cho thấy rằng Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. có
thể được xem như một phương thuốc để :
- ngăn ngừa phù bạch huyết lymphœdème.
là sưng một phần ít nhiều quan trọng của cơ thể do hầu quả
của sự tích tụ chất lỏng bạch huyết trong những mô liên kết tissus conjonctifs.
Chứng
phù bạch huyết lymphœdème sau một
phẩu thuật cắt bỏ vú mastectomie với
sự loại bỏ nách ablation de l'aisselle
và chiếu xạ rayonnement sau giải phẩu
nách postopératoire de l'aisselle
là một biến chứng thường xuyên và cực kỳ gây căn thẳng extrêmement stressante.
Đôi
khi, chứng phù bạch huyết lymphœdème không
xuất hiện cho đến nhiều năm sau khi chữa trị bệnh ung thư cancer đã diễn ra.
Hiện
vẫn không có phương thuốc phổ biến có hiệu quả chống lại :
- chứng bệnh phù bạch huyết lymphœdème.
Dựa
trên kinh nghiệm có được với liệu pháp của hội chứng sau huyết khối syndrome
post-thrombotique, người đề xuất hiệu quả chữa trị của Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus L. ex Pers. trong những chuột trong việc hỗ trợ điều trị bệnh phù bạch huyết lymphœdème.
▪ Trong
nghiên cứu so sánh nầy, 206 người phụ nữ đã được chữa trị như là phòng ngừa
trong thời gian là 2 năm và tiếp theo sau là 6 năm.
◦ 92 %
của những người phụ nữ bị ảnh hưởng phòng ngừa với Nấm Quy đầu thúi Phallus
impudicus không có sự phát triển phù bạch huyết lymphœdème nào trong thời gian quan sát là 6 năm.
◦ Tuy
nhiên, trong nhóm kiểm chứng, chỉ có 59% không có phát triển phù bạch huyết lymphœdème nào.
◦ Một
sự cải thiện của những phát hiện lâm sàng cliniques
và trong cảm giác chủ quan của hạnh phúc đã được quan sát ở 88 % bệnh nhân mắc
bệnh phù bạch huyết lymphœdème phát
triển.
▪ Những
nghiên cứu gần đây được thực hiện ở Riga,
trong Lettonie, tại Hàn lâm y khoa Latvia
Latvian Medical Academy trên dịch nước ép lên men của stinkhorn Nấm Quy đầu
thúi Phallus impudicus L. ex Pers. cho thấy rằng một phần đoạn hoạt động là một
glucomannane được gọi là PI-2.
Những stérols và những acides
phénol-carboliques cũng đã được xác định.
◦ Khi thử nghiệm trong phòng thí
nghiệm với những động vật, dịch nước ép jus
của nấm đã kích thích :
- gây độc tế bào T cytotoxiques
les cellules T,
- và cải thiện hoạt động của những tế bào sát thủ tự nhiên cellules tueuses naturelles (NK),
đã
chứng minh một hoạt động :
- chống căn thẳng anti-stress,
- và gây thích nghi adaptogène
cũng như :
- một hiệu quả chống ung
bướu khối u antitumoral với dòng tế
bào ung thư sarcome 180,
- và ung thư biểu mô carcinome d'ascite Ehrlich
và làm giãm những hiệu quả gây độc
máu hémotoxiques của tác nhân :
- hóa trị liệu pháp chimiothérapeutique,
- 5-FU (Kuznecovs & Jegina, 1993).
▪ Những
nghiên cứu trên độc tính cấp tính toxicité
aiguë của nước ép jus lên men jus fermenté của stinkhorn Nấm Quy đầu
thúi Phallus impudicus L. ex Pers. trên
những động vật đã chứng minh môt DL50 bao gồm giữa 1,5 và 50 ml / kg, tùy theo
những loài.
Quản lý
dùng mãn tính chronique của nước ép jus không dẫn đến những hiệu quả có thể
chứng minh được của :
- đột biến mutagènes,
- gây quái thai tératogènes,
- gây ung thư cancérogènes,
- hoặc gây dị ứng allergènes.
» (Medicinal
Mushrooms, Christopher Hobbs, p183-184)
Thực phẩm và biến chế :
▪ Ăn
được :
- Trứng
nấm duy nhất.
▪ Ở
giai đoạn trừng oeuf, những mảnh vụn của
lớp bên trong (đế thụ thể réceptacle)
có thể được cắt với một con dao và ăn sống.
Chúng
dòn sắc nét và dòn với một hương vị của củ cải radis hấp dẫn.
▪ Loại
nấm này được đánh giá và tiêu thụ trong Pháp và trong một phần của nước Đức Allemagne,
nơi đây nó có thể đcược bán tươi hoặc ngâm và đvược sử dụng trong những saucisses.
Những
loài tương thự được sử dụng trong Tàu.
▪ Trứng
œuf, loại bỏ chất đông gélatine của
nó, ăn sống được, ví dụ như trong salade, và có một hương vị nằm giữa củ cải
radis và củ cải raifort.
Nó chủ
yếu được thiêu dùng trong Viễn Đông Extrême-Orient.
Một khi nấm phát triển, mùi hôi của xác con vật hôi thúi charogne proscrit tất cả được sử dụng trong ẩm thực culinaire.
Nguyễn thanh Vân
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire