Truffe noire
Nấm Truffe - Nấm
cục đen
Tuber melanosporum
Vittad.
Tuberaceae
Đại cương :
Nấm cục
Truffe, những viên ngọc quý giá trị của trái đất …
▪ Nếu việc thu nhặt của những nấm
quay trở lại thời gian lúc ban đầu, Nấm cục truffe được nổi tiếng từ thời cổ
đại Antiquité.
Nấm cục đen truffe noire (Nấm cục đen Tuber
melanosporum) là một nấm ăn được sống và phát triển ở dưới đất bằng cách
cộng sinh symbiose với một cây
(chủ yếu là cây sồi chêne hoặc cây dẽ noisetier), với điều kiện là rễ phải sống
cộng sinh với nấm gọi là rễ nấm mycorhizé
xuất phát từ tiếng Hy lạp Grec : mukes (nấm champignon) và rhiza (rễ racine).
▪ Được biết đến và tiêu dùng từ rất
nhiều thế kỹ, nấm cục truffe đã giữ
một phần của sự huyền bí của nó.
Cực kỳ thú vị và hấp dẫn, ban đầu
nó được xem như một ung bướu tumeur
của trái đất, hoặc thậm chí sau đó, như một loại phép lạ đã nẫy sinh ra khi
tiếp xúc với cú sét đánh foudre trên
đất…
Ngày nay người ta biết rằng nấm cục
truffe là một nấm của giống « tuber », cũng được biểu thị dưới thuật
ngữ nhà sinh học biologiste « ascocarpe ».
Không giống như phần lớn những nấm
khác, nấm cục truffe là kết quả của
một sự đậu quả fructification dưới
đất. Người ta nói khi nấm sống và phát triển ngầm dưới đất champignon hypogé.
Một đặc trưng cơ bản khác của nấm
cục truffe, là dựa trên mối quan hệ giữa
nó với một cây.
Thật vậy, nó là một quả của những
sợi khuẩn ty mycélium sống ở đất sol trong sự kết hợp với một cây.
Sợi nấm khuẩn ty mycelium được gắn kết vào những rễ của
cây chủ arbre hôte, ở nhiều điểm được
còn được gọi là rễ nấm mycorhizes.
Mối quan hệ liên minh giữa cây chủ abre hôte và nấm cục truffe được gọi là cộng sinh symbiose, bởi vì cả hai bổ sung cho nhau
và cùng có lợi với nhau.
▪ Mùa Nấm cục đen Tuber melanosporum kéo dài từ giữa
tháng 11 mi-novembre đến cuối tháng 3
mars. Nhiều yếu tố quyết định phẩm chất của
nấm, bao gồm : đất, canh tác nông nghiệp, khí hậu.
« Mỗi một
sự sản xuất là kết cục của một giấc mơ » thú nhận của Jean-Pierre Vaujour, một
nông dân agriculteur và nhà tìm nấm trufficulteur trong vùng Brive.
● Những
tác dụng làm ấm lại réchauffement
Tuy
nhiên sự thay đổi khí hậu climatique ảnh
hưởng trên những sự thu hoạch :
« Có một nấm cục đen truffe trên bề mặt » Ông nói. V ới một sự khô ráo sécheresse và thiếu nước, những đất nông
cạn cho thấy có một nấm cục đen truffe
trên bề mặt. Nó đề kháng trong môi trường khắc khe nầy nhờ ở những độ ẩm đủ để
phát triển.
Cuối
cùng Ông Jean-Pierre
Vaujour bán viên kim cương đen ( truffe ) của ông trên những thị trường.
Lời
khuyên hướng dẫn của Ông trong nghệ thuật nấu ăn nấm cục đen truffe. Ông cam đoan và vẫn còn lắng
nghe của những nổi sợ trong nấu ăn của những nhà tiêu thụ bởi vì sản phẩm quý
phái nầy rất dễ vỡ.
Mỗi
loại cần thiết có một bàn tay giúp đở chính xác và một ý thức nấu ăn cho một
khoảnh khắc sành ăn thât sự !
Chu kỳ
sinh sống của Nấm cục đen Tuber
melanosporum.
Nấm cục truffe kết
quả từ sự thụ tinh fécondation của 2
cá nhân đơn bội haploïdes :
▪ Khuẩn ty mycélium
« mẹ maternel », lan rộng, bền bĩ và liên kết với những rễ của
những cây lân cận, tạo ra nạt thịt của nấm cục chair de la truffe và góp phần một nữa nhiễm thể gènes của những bào tử giãm nhiễm méiospores ;
▪ Khuẩn ty mycélium
« cha paternel », ít lan rộng, đời sống ngắn ngủi (hiếm khi hơn 1
năm ) và không liên quan với những rễ của cây, chỉ đóng góp vào bộ nhiễm thể
gen génome của những bào tử spores.
Chu kỳ của Nấm cục đen Tuber melanosporum bắt đầu
vào mùa xuân, giữa tháng 4 và tháng 6 , và kéo dài 9 tháng.
Nó phát triển trong thời gian mùa hè và trường thành trong
thời gian mùa thu. Nó thu hoạch ngay từ đợt sương giá đầu tiên và cho đến cuối
tháng hai.
● Chu kỳ sinh học Cycle biologique
Chu kỳ
sinh học cycle biologique của mélano (Nấm cục đen Tuber melanosporum) là khá nổi tiếng.
Những Nấm cục nhỏ truffettes được
sinh ra trong tháng 5 mai và tháng 6 juin, phát triển to lớn chủ yếu vào tháng
8 août, trưởng thành đặc biệt vào
tháng 12 décembre, tháng giêng janvier và tháng 2 février.
Nếu nó
không được thu hoạch, nó sẽ phóng thích bào tử spores của nó (hạt mầm của nấm) bằng cách nẩy mầm khi tiếp xúc với
những rễ mịn nhỏ, sẽ góp phần vào sự
hình thành một rễ nấm mycorhizes mới.
Nó chủ
yếu từ những sợi khuẩn ty filaments
mycéliens có từ những rễ nấm mycorhizes mà sẽ có thể bắt đầu một chu
kỳ sinh học cycle biologique mới với
sự ra đời những nấm cục nhỏ truffettes.
Chu kỳ
sinh học cycle biologique của nấm cục
truffe de Bourgogne (Tuber uncinatum)
hoặc bản sao của nó homologue (hoặc
kiểu sinh học écotype, thậm chí loại variété), Nấm cục truffe mùa hè (Tuber aestivum),
khác nhau do sự sinh ra của nấm truffes
cũng sinh ra vào mùa thu hơn vào mùa xuân (ngay cả trong mùa hè ).
Những
nấm cục truffes, được sinh ra vào mùa
xuân (dưới khí hậu lục địa climat
continental, đặc biệt trong Hongrie, Roumanie, Pologne), được thu hoạch vào
cuối mùa hè và trong mùa thu trước khi trời quá lạnh giá vào mùa đông phá hoại
những thân đậu quả corps fructifères trong
đất.
Trong
Pháp France, Nấm cục truffe rất có thể sinh ra vào cuối mùa
hè và được thu hoạch vào tháng 5, tháng 6 và tháng 7.
● Nghiên cứu di truyền Étude génétique.
Nấm cục
đen truffe noire Périgord là loại nấm
đầu tiên ăn được có bộ nhiễm thể gen génome hoàn toàn trình tự séquençage những cơ bản của những phần
đoạn DNA séquencé vào năm 2010 bởi một tập đoàn Pháp-Ý franco-italien, liên quan máy soi Genoscope.
Bộ
nhiễm thể génome nầy bao gồm 125 mégabases giải
thích nầy được giải thích bởi sự hiện
diện của 58 % của quá trình hoán vị transposons
) nhưng chỉ 7 500 nhiễm thể gènes mã
hóa codant của những chất đạm protéines, trong đó khoảng 6 000 tương
tự với những nhiễm thể gènes của
những loại nấm khác.
Nghiên
cứu cho thấy một hoạt động mạnh của những đường sinh tổng hợp biosynthèse của những hợp chất hữu cơ dễ
bay hơi composés organiques volatils (hơn
50, bao gồm những hợp chất lưu huỳnh soufrés,
alcools và aldéhydes) và phân hóa tố thủy phân enzymes hydrolytiques góp
phần gây ra sự rễ nấm hóa mycorhization hung hản hơn, những rễ nấm mycorhizes xâm nhập « có hiệu
lực » vào những tế bào của vật chủ của nó bằng cách tiêu hóa những thành vách
tế bào.
▪ Mùi
thơm nầy mạnh mẽ như mùi của chất mùn humus
và mùi xạ hương musc, cho phép phát
tán những bào tử spores của chúng chủ
yếu bởi sự nhân giống được nuốt vào bởi một động vật được thu hút bởi những vỏ
hạt endozoochorie (đi qua ống
tiêu hóa của động vật mắc bệnh nấm mycophages như heo rừng sangliers và loài gậm nhấm rongeurs), là do ở hoạt động sinh tổng
hợp nầy biosynthèse và vi khuẩn hệ vi
sinh vật microbiote (vi khuần bactéries và nấm men levures) sống trên và trong nấm cục truffe.
Trình tự séquençage của nhiễm thể ADN cho phép
phân biệt 10 dấu hiệu nhiễm thể gen marqueurs
génétiques tạo thành một tập tin
fichier dấu vân di truyền empreintes génétiques, điều nầy tạo điều
kiện cho việc « nhập vào typage » những nguồn gốc địa lý của những
nấm cục truffes được thu hoạch và cho phép một sự phát hiện tốt nhất của những
giả mạo fraudes.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật :
TRUFFE nấm
cục đen hoặc trắng.
▪ Truffe Nấm cục đen Tuber melanosporum là một nấm với đậu
quả fructification dưới đất sống cộng
sinh symbiose với cây nấm truffier. Cộng sinh nầy symbiose là một kết hợp với lợi ích hỗ
tương lẫn nhau giữa cây chủ arbre hôte
và nấm hiện diện trên những rễ, rễ nầy dưới dạng hỗn hợp được gọi là « rễ nấm mycorhizes».( theo tiếng Hylạp myco = nấm, rhizes = rễ, tức là có sự cộng sinh giữa rễ và nấm ).
Những Rễ nấm mycorhizes, nằm trên những ngọn của rễ mỏng manh, là rất nhỏ được
quan sát trên kính hiển vi microscopiques.
Chúng góp phần duy trì nấm dưới dạng thực vật của nó (hoặc khuẩn ty mycélienne) và thúc đẩy sự đậu quả fructification của nó từ thời điểm nơi
bị đốt cháy brûlé (rond de sorcière mô tả một loại nấm ăn được trong vướn, phát triển
thành một vòng tròn trong bãi cỏ ) được xuất hiện dưới gốc cây ngay năm thứ 4 và
thứ 5.
▪ Những quả bào tử, dưới dạng một
củ hình cầu tubercule globuleux, tròn,
không đều nhau hoặc có thùy : những nấm cục nầy truffes thích hợp. Chúng được chôn trong đất ở độ sâu khoảng từ 5 đến
30 centimètres.
Kích thước thay đổi (thường từ 5 đến
10 cm đường kính), nặng trung bình thay đổi giữa 20 và 100 g.
Tuy nhiên nó có thể đạt tới 500 grammes,
trở lên : một mẫu vật được tìm thấy vào tháng 12 décembre năm 1999 ở chung
quanh Sorges cân nặng 1,147 kg. Kỷ lục cho nấm cục lớn nhất không bao giờ
tìm thấy là 10,5 kg.
▪ Ngày nay, những nhà nấm học đã
xếp loại một số nhất định những loài của nấm cục truffes, mà người ta biết nhờ 3 tiêu điểm chánh, bao gồm :
- lớp biều bì bên ngoài
của túi bào tử hoặc thân đậu quả fructification khác của nấm cục truffe péridium (da peau, hình dáng bên ngoài
aspect extérieur),
- phần nạt thịt bên
trong được bao bọc bởi lớp péridium gleba
(nạt thịt chair và đường mạch veines),
- và hương thơm tỏa ra
bởi nấm cục truffe.
Như là một sản phẩm sinh học, nấm
cục truffe bị chi phối bởi môi trường
sống bên ngoài environnement và khí
hậu climat. Mỗi mùa nẫy sinh ra một
loài kấm cục truffe khác nhau .
Dưới đây là những loài nấm cục
chánh đã thu hút sự chú ý và người ta đã đề nghị xếp hạng những nấm theo từ giá
đắt nhất đến giá thành phải chăng nhất.
- Tuber Magnatum Pico ( nấm cục trắng truffe blanche Piemont),
- Tuber Melanosporum Vittadini ( nấm cục đen mùa đông truffe noire d’hiver),
- Tuber Brumale Vittadini ( nấm cục mùa đông truffe d’hiver),
- Uncinatum Chatin ( nấm cục truffe bourgogne ) ,
- Tuber Borchii Vittadini ( Bianchetto, Marzuolo hoặc nấm cục trắng truffe blanche mùa xuân ) ,
- Tuber Aestivum Vittadini ( nấm cục trắng mùa hè truffe blanche d’été).
▪ « Truffe Magnatum Pico, hoặc nấm cục trắng truffe Blanche du
Piemont »
Theo
truyền thống được thu hoạch vào mùa thu trên đất Ý sol italien, nấm cục nầy
truffe được xem như là sản phẩm thực phẩm đắt giá nhất thế giới .
Những
nấm cục trắng được nổi tiếng cho một say mê mà nó khơi dậy cho những người sành
khẩu vị nhất. Cho cả hai, sự tinh tế và tinh chế, quý giá bởi sự hiếm có của
nó, thứ mà người ta cũng gọi là “ Vàng trắng Or blanc Piémont”, là một niềm tự hào lớn nhất của những người Ý,
và những nhà hàng tốt nhất trên thế giới chia sẽ chúng với họ.
▪ « Tuber Melanosporum Vitttadini hoặc nấm
cục đen Truffe noire Norcia »
Nấm cục
Tuber Melanosporum Vitt. d’Italie, thường được gọi là nấm cục đen truffe noire,
được xem như là “ nữ hoàng reine của những nấm cục đen truffes noires”.
Rất phổ
biến ở miền nam Tây Âu sud de l’Europe occidentale, đặc biệt lé ở Pháp France
và trong Ý Itlaie, nổi tiếng trong vùng Norcia.
▪ « Tuber Brumale Vittadini hoặc nấm cục mùa
đông truffe d’hiver »
Nấm cục
truffe nầy thường bị nhầm lẫn với nấm cục mélanosporum vì chúng rất giống nhau.
Đây là
nấm cục truffe duy nhất được xếp hạng trong số những nấm cục đen truffes noires
quý phái ở bên cạnh nấm cục Tuber Melanosporum Vitt.
Những
vảy của nấm cục brumale giống như những mụn cóc nhỏ verrues liên tục kế nhau,
vỏ bao bên ngoài péridium của nấm có màu nâu đậm đến màu đen nhạt.
Nó trở
nên đỏ khi trưởng thành chín. Dễ vở, nó dễ dàng tách rời ra, điều nầy có thể
gíup phân biệt chúng.
▪ « Tuber Borchii Vitttadini, hoặc Mazulo
dites Bianchetto »
Những «
bianchetto » cũng được biết dưới tên “ nấm cục trắng mùa xuân truffes blanches
de printemps” là một loài của nấm cục truffe rất phổ biến đặc biệt là ờ Ý
Italie.
Chủ yếu
được cấy nuôi ở Acqualagna, trung tâm của tỉnh Pesaro và Urbino, trong Gorge du
Furlo lộng lẫy splendide, vị trí địa lý nầy được xem như là ngôi đền thiêng
liêng của nấm cục truffe do những đặc điểm khí hậu climatiques và môi trường
sống environnementales bình dị thôn dã idylliques
của nó.
▪ Tuber
Uncinatum Chatin, hoặc nấm cục Bourgogne
»
Cũng được gọi là nấm cục truffe de Bourgogne do vị trí địa lý nuôi trồng
của nó, nấm cục Tuber Uncinatum Chatin cũng rất giống với nấm cục truffe tuber
Melanosporum.
Lớp biểu bì bao bên ngoài màu đen,
những mụn cóc ít được đánh dấu và có dạng đều hơn.
Nó mọc cộng sinh symbiose với một
số lớn cây gỗ cứng, như là :
- chêne,
hêtre, charme, tilleul, noisetier, và pin,
và nó
ít bị ảnh hưởng về mặt nhiệt độ chaleur và phẩm chất của đất qualité de sol.
▪ “Tuber Aestivum hoặc nấm cục trắng mùa hè truffe blanche d’été
“
Nấm cục
Tuber Aestivum, thường được gọi là nấm cục mùa hè truffe d’été hoặc nấm cục truffe de la Saint-Jean ,
thu hoạch vào tháng 5 mai đến tháng 11 Novembre.
Nó
thích những đất giống như của nấm cục Tuber melanosporum. Duy nhất và cùng một
cây có thể sản xuất trong mùa hè été những nấm cục tuber aestivum và những nấm
cục tuber melanosporum vào mùa đông, bởi vì chúng là 2 loài khác biệt nhau..
● Phương tiện thu hoạch nấm cục
truffe .
▪ Sử dụng nhiều chó hơn là heo cochon
Có nguồn gốc từ thành phố Saint
Aulaire, Jean-Pierre Vaujour tình nguyện mở những cánh cửa trang trại canh nông
của mình để chia sẻ kiến thức của Nấm cục truffe
với những du khách.
Ông ta làm việc với con chó của
mình, “ border collie ” một giống
chó chăn giữ gia súc có nguồn gốc ở biên giới Anh quốc và Scotland để hỗ trợ
nông dân trong công việc đồng áng, để đào bới tìm nấm cục truffe.
◦ Những loài heo thường qua tham
ăn, bỏ mặc con người ! Nhà truy tìm Nấm cục đen trufficulteur đã tạo ra một mối quan hệ duy nhất với con chó của
mình, con vật có nguồn gốc sống thành bầy, bây giờ là bạn đồng hành không thể
thiếu trong việc tìm kiếm, những nấm cục đen truffes.
Sự huấn luyện giáo dục con vật dựa
trên một trò chơi, con chó được trở nên quen thuộc với những mùi thơm của nấm truffe và nghe lịnh của chủ nhân, chúng được
đền đáp bằng cách đối xử ( cho ăn ) và vuốt ve mỗi khi tìm được nấm, ảnh hưởng
đến sự sản xuất đến những sản phẩm.
Công thức kỳ diệu không tốn tại,
nhưng phải có kiến thức hoàn hảo về sự đa dạng của sinh học thực vật biodiversité végétale và một sự kiên
nhẫn tốt.
Jean-Pierre Vaujour đã nghiên cứu
những vùng đất của mình và phát triển trên những loại cây bao gồm những cây sồi
xanh chênes verts để cho những kết
quả tốt.
Bộ phận sử dụng :
Toàn nấm cục truffe sau khi làm
sạch.
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ Thành phần và sự tích tụ của hợp chất mùi thơm dễ
bay hơi aromatiques volatils (thí dụ,
pyrazines, hợp chất lưu huỳnh soufrés
và esters) và thành phần chánh, thí dụ :
- 3-méthyl-1-butanol,
- và 2-phényléthanol)
trong quá trình lên men fermentation nầy đã ảnh hưởng một cách đáng kể bởi nồng độ của
đường saccharose trong môi trường.
Những thông tin thu được có thể là hữu ích trong những
ứng dụng để chuyển đổi những chất mùi thơm arômes
của khuẩn ty mycéliums nấm cục truffe tương tự như thân quả fructification bằng cách tối ưu hóa quá trình lên men fermentation.
▪ Phân tích của những acides aminés cho thấy rằng những chất :
- méthionine,
- valine,
- sérine,
- phénylalanine,
- isoleucine,
- và thréonine
là những chất chánh
liên quan đến sự sinh tồng hợp biosynthèse
của 9 COV phân biệt chánh.
Nghiên cứu nầy cho
thấy rằng chất chuyển hóa biến dưởng métabolisme
của những acides aminés đóng một vai trò quan trọng trong sự điều hòa của chất
mùi thơm arôme của hệ thống lên men fermentation của Nấm cục đen Tuber
melanosporum.
▪ 57 hợp chất muì
thơm dễ bay hơi aromatisants volatils
đã được dự kiến xác định, bao gồm :
- 7 alcools, 2
acides, 6 esters, 12 aldéhydes, 14 cétones, 2 phénols, 6 pyrazines, 6 hợp chất
lưu huỳnh soufrés và 3 thành phần khác.
Những aldéhydes và
những cétones đã biểu hiện với mức độ cao nhất.
Những
« melano Nấm cục đen Tuber melanosporum » được sử dụng như
một gia vị hoặc đi kèm theo một món ăn, số lượng nhiều hay ít.
Do đó,
sự đóng góp của chúng cho sự dinh dưởng con người nutrition humaine vẫn còn khá thấp.
Tuy
nhiên, bảng kèm định lượng bên dưới, những thông tin chánh của sự dinh dưởng nutritionnelles.
Những
nguồn nầy không cung cấp dữ liệu nào trên hàm lượng của vitamine A và thành
phần của những acides béo.
Tuy
nhiên, nó có thể chứa những số lượng quan trọng của vitamines B2, B3, B5, D và
K.
Giá trị năng lượng énergétique và dinh
dưởng nutritionnelle
cho 100 g của
Nấm cục đen Tuber melanosporum
Vitt12.
● Thành
phần dễ bay hơi volatils của lưu huỳnh soufre và quá trình thoái biến catabolisme của chất méthionine
Việc xác định của những COV phổ
biến cho tất cả những loại Nấm cục truffes
và những loài đặc trưng cần thiết cho cả hai một phân tích của tất cả những
loài sử dụng cùng một kỹ thuật và cho mỗi loài,
- phân tích một số lớn
mẫu vật có nguồn gốc địa lý khác nhau,
- và ở những giai đoạn
trưởng thành khác nhau.
Tuy nhiên, những dữ liệu trong
những tài liệu có thể được sử dụng để xây dụng của những sự quan sát trên những
chất dễ bay hơi phổ biến và đặc trưng ở một loài, giữ trong tâm trí rằng những
dữ liệu nầy là thiên về những 3 loài nghiên cứu nhiều nhất :
▪ Tuber melanosporum, Tuber
magnatum and Tuber borchii . Thí dụ :
Những hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
của lưu huỳnh soufre (S-COV) là những
chất đóng góp thiết yếu vào mùi thơm arôme
của nấm cục truffe do những ghi chú
đặc trưng đối với :
- mũi con người và
ngưỡng khứu giác seuil olfactif rất
thấp (Guadagni và al., 1963).
▪ Sự đa dạng của những hợp chất dễ
bay hơi lưu huỳnh volatils soufrés
trong những nấm cục truffes là rất lớn, từ những hợp chất tương đối
nhỏ, như là những :
- 2‐methylbutanal
- và 3‐methylbutanal
- sulfures de diméthyle mono - (DMS),
- dimethyldisulfide -
(DMDS),
- và trimethyldisulfide - (DMTS),
sản xuất bởi phần lớn của những
loài nấm cục truffes Tuber, với sự phức tạp của những
chất, như là :
-
2-méthyl-4,5-dihydrothiophène,
đặc trưng của Nấm cục trắng truffe blanche Nấm cục trắng Tuber borchii,
- và bis (méthylthio)
méthane,
đặc trưng của Nấm cục trắng truffe blanche Tuber magnatum.
Loài sau nầy có chứa 27 hợp chất dễ
bay hơi lưu huỳnh volatils soufrés
(Gioacchini và al., 2008).
▪ Những mô hình paradigmes của sự sản xuất S-COV phẩm chất
thực phẩm là những vi khuẩn bactéries
(thí dụ, vi khuẩn Brevibacterium
linens và những lactobacilles và lactocoques khác)
và những nấm men ascomycètes
(thí dụ, Geotrichum candidum, Kluyveromyces
lactis, Yarrowia lipolytica và Debaryomyces hanii) liên quan trong sự tạo mùi
thơm của những phó mát aromatisation des
fromages.
▪ Hai đường chính của sinh tổng hợp
biosynthèse S-COV, cả hai đều dựa
trên quá trình dị hóa catabolisme của
:
- chất l-méthionine (Met),
đã được
vào trong những sinh vật nầy : sự chuyển đổi trong một giai đoạn của :
- chất l-méthionine thành métanéthiol (MTL) bởi méthionine γ-lysase (một vi khuẩn kiểu mẩu bactérie typique thay vì một phân hóa tố của nấm men enzyme de levure)
hoặc bởi những C-S
lyases khác (thí dụ, cystathionine γ-lyase);
và một đường hai giai đoạn, bắt đầu
bởi sự chuyển một nhóm amino từ phân tử nầy sang phân tử khác transamination của :
- l-méthionine thành acide
4-méthylthio-2-oxobutyrique (KMBA),
sau đó chuyển đổi thành 3-(méthylthio)
propanal (cũng được biết dưới tên méthional) thông qua sự mất một hoặc nhiều
nhóm carboxylique từ một hợp chất hữu cơ hoặc khử thành :
- acide 4 méthylthio-2-hydroxybutyrique (HMBA),
với sự
hình thành cuối cùng của métanéthiol ( MTL) (Arfi và al., 2006; Liu và al.,
2008).
● Sinh tổng hợp biosynthèse chất dễ
bay hơi volatile trong những nấm cục
truffes
Ngược lại với những nấm men levure của tiệm bánh boulangerie Saccharomyces cerevisae, trong
đó nhiều đường sinh tổng hợp biosynthèse
và đơn vị di truyền gènes có liên
quan trong tổng hợp chất dễ bay hơi synthèse
volatile đã được xác định, những nấm cục truffes hầu như không được điều tra.
Những đơn vị di truyền ứng viên có
khả năng tham gia trong sinh tổng hợp chất dễ bay hơi biosynthèse
volatile chỉ được đề xuất gần đây, nhờ vào trình tự séquençage của bộ nhiễm thể génome
của Nấm cục đen truffe noire (Nấm cục
đen Tuber melanosporum) (Martin và al., 2010).
● Dẫn xuất
những chất dễ bay hơi volatiles từ
những vi khuẩn microbe liên quan đến
nấm cục truffe.
Những thân quả fructifications của nấm truffe Nấm cục đen Tuber melanosporum
hình thành dưới đất và bắt giữ của nhiều vi khuẩn microbes trong quá trình sản xuất của chúng.
Thật vậy, sự hiện diện của vi khuẩn
bactéries, của nấm men levures và của nấm sợi champignons filamenteux đã được mô tả
trong những thân quả fructifications của
nấm cục trắng truffes blanches Tuber borchii và Nấm cục đen Tuber
melanosporum (Barbieri và al., 2005a, 2007; Buzzini và al., 2005; Pacioni và
al., 2007).
Hơn nữa, một nội vi khuẩn endobactérie của ngành phylum
Cytophaga-Flexibacter-Bacteroides đã được báo cáo trong những nuôi trồng khuẩn
ty mycéliennes tinh khiết của truffe blanche Nấm cục trắng Tuber borchii, cho thấy một sự liên
kết chặt chẻ giữa nấm và vi khuẩn bactérie
nầy (Barbieri và al., 2000).
▪ Đầu tiên, những nấm levures được phân lập của những thân đậu
quả fructifications của Nấm cục đen Tuber melanosporum và nấm cục
trắng Tuber magnatum đã được
tổng hợp trong nuôi cấy tinh khiết một số nhất định alcools (2-méthylbutanol;
3-méthyl butanol) và của nhiều hợp chtấ lưu huỳnh soufrés đặc trưng của chất
mùi thơm arôme của nấm cục truffe (Buzzini và al. 2005).
▪ Thứ hai, một số nhất định những
chất dễ bay hơi volatiles như là :
- 2-méthyl-4,5-dihydrothiophène,
đặc
trưng ở những thân đậu quả fructifications
của Nấm cục trắng Tuber borchii,
đã không được tìm thấy trong những nuôi trồng khuẩn ty mycéliennes thuần chủng của cùng một loài (Tirillini và al., 2000;
Splivallo và al., 2007a ).
Những
kết quả nầy cho thấy rằng những chất dễ bay hơi volatiles của thân đậu quả fructification
là dưới sự kiểm soát nghiêm nhặt của sự phát triển hoặc chúng được tạo ra bởi
những vi khuẩn microbes liên quan
hoặc thậm chí cả những vi khuẩn microbes và những nấm cục truffes, cái nầy sử dụng một tiền chất
sản xuất bởi cái khác.
Tuy
nhiên, trình tự séquençage của bộ
nhiễm thể génome của truffe noire, Nấm cục đen Tuber
melanosporum, cho thấy rằng những nấm cục có tất cả những nhiễm thể di
truyền gènes cần thiết để tổng hợp
của những thành phần thiết yếu của mùi thơm arôme
của truffe noire Nấm cục đen Tuber melanosporum (Martin và al., 2010).
Tóm
lại, chức năng của những vi khuẩn microbes
liên quan với thân đậu quả fructifications
của nấm cục truffe như nhà sản xuất
của những thành phần chất mùi thơm arôme
của nấm cục truffe hoặc tiền chất của
chúng vẫn còn là vấn đề giả thuyết hypothétique.
● Chất dễ bay hơi khuẩn ty volatils mycéliens.
Những khuẩn ty mycéliums của nhiều loài nấm cục truffes có thể được nuôi trồng trong những điều kiện vô trùng stériles. Như đối với những nấm khác, hồ
sơ chất dễ bay hơi volaties của khuẩn
ty mycélium nấm cục truffes phụ thuộc vào những điều kiện
của sự tăng trưởng (Tang và al., 2009).
Điều nầy được minh hoạ cho Nấm cục
trắng Tuber borchii, mà Tirillini và al. (2000) đã xác định 29 chất
dễ bay hơi volatiles, trong đó chỉ có
2 chất (octanone-3 và diméthyltrisulfure) thường được tìm thấy trong những thân
đậu quả fructifications.
Đồng thời sử dụng những điều kiện
khác nhau của sự tăng trưởng cho những khuẩn ty mycélium của Nấm cục trắng Tuber
borchii, Splivallo và al. (2007a) đã xác định 8 thành phần chất dễ bay hơi volatils, bao gồm của những thành phần :
- chất dễ bay hơi C8,
- và những thành phần
chất mùi thơm aromatiques,
7 trong số đó cũng đã được mô tả
trong những thân quả fructifications.
Đối với mũi con người, chất thơm arôme của khuẩn ty mycélium của Nấm cục trắng Tuber borchii điều đó không giống với những thân quả fructifications, bởi vì không phải tất cả những chất dễ bay hơi volatiles đặc trưng của những thân quả fructifications đều có thể được sản xuất
bởi những khuẩn ty mycélium hoặc bởi
vì chúng hiện diện trong những tỹ lệ khác nhau (Splivallo và al., 2007a ).
Nấm cục trắng Tuber borchii cho
đền năm 2009, là loài duy nhất của nấm cục truffe
mà những chất dễ bay hơi khuẩn ty volatiles
mycéliennes đã được nghiên cứu, có lẽ do sự tăng trưởng của nó khá nhanh so
với những loài khác.
Những tiến bộ gần đây của công nghệ
sự lên men technologie de la fermentation
đã dẫn đến một sinh khối khuẩn ty biomasse
mycélienne của nấm cục truffes
lớn hơn nhiều so với sự thu hoạch trườc đây.
Điều nầy cho phép Tang và al.
(2009) đã nghiên cứu ảnh hưởng ở những điều kiện nuôi trồng culture trên những chất dễ bay hơi volatiles sản xuất bởi những khuẩn ty mycéliums của :
- 4 loài nấm cục đen truffes
noires
(Tuber melanosporum, Tuber sinense,
Tuber indicum và Tuber aestivum syn. Tuber
uncinatum).
Thật
thú vị, những tác giả đã quan sát rằng những điều kiện nuôi trồng culture đã vượt quá sự phân bổ của những
loài về những hiệu quả của chúng trên hồ sơ chất thơm aromatique (Tang et al., 2009).
Như
những thân quả fructifications của
những loài được sử dụng có một mùi khác biệt, những kết quả cho thấy rằng cũng
như yếu tố quyết định di truyền déterminant
génétique của chất mùi thơm arôme
nấm cục truffe, những yếu tố môi
trường như là :
- khí hậu climat,
- và những quẩn thể vi khuẩn populations microbiennes
ở bên trong của những thân quả fructifications có thể góp phần vào mùi thơm arôme đặc trưng cho mỗi loài.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Những loài của nấm cục Truffes
Loài thường
được trồng trong miền nam và miền trung nước Pháp France được gọi là Nấm cục
đen truffe noire hoặc truffe du Périgord.
Nó mang
một tên khoa học thực vật là Nấm cục đen Tuber
melanosporum ; đó là lý do người ta cũng gọi là « mélano ».
Trong
những loài khác được biết đến, người ta tìm thấy Nấm cục brumale hay musquée
(Tuber brumale) thu hoạch cùng lúc với mélano,
- Nấm
cục trắng mùa hè truffe blanche d’été (Tuber aestivum) từ tháng 5 mai đến
tháng 7 juillet,
- Nấm
cục Bourgogne (Tuber uncinatum) từ tháng 9 septembre đến tháng 12 décembre (hiện
diện chủ yếu trong vùng Đông Bắc ),
- Nấm
cục rufum (Tuber rufum) to như hạt đậu hòa lan petit pois,
- Nấm cục
mésentérique (Tuber mesentericum) có mùi thơm rất mạnh (mùi của éther
sulfurique), nấm cục rỗng truffe creuse
(Tuber excavatum).
Từ năm 2003,
người biết rằng nấm cục trắng truffe
blanche quý giá Italie (Tuber magnatum) hiện diện trong trạng thái tự nhiên
trong thung lũng Rhône vallée du Rhône.
Nó là đối tượng của một số đồn điền.
- Nấm
cục tàu truffe de Chine (Tuber indicum) được nhập cảng từ những năm 1990 trong
Pháp France nhưng không phải là đối
tượng nuôi trồng nào trong Pháp France. Mùi thơm của nó là yếu.
Ứng dụng :
▪ Hướng
dẫn canh tác của nấm cục đen tuber melanosporum.
Nấm cục đen Tuber melanosporum là thân quả fruit của một nấm “rễ nấm” mycorhizien.
Nó sống kết hợp với những rễ của một vật chủ hoặc cây bụi, như là :
- cây noisetier, cây sồi xanh chênes verts, cây sồi chênes, cây ciste và cây thông pins, và
những cây khác.
Thân quả fruit hoặc nấm champignon
được hình thành trong đất sol và một
số động vật như những loài heo hoang porcs
sauvages hoặc heo rừng sangliers phát hiện ra chúng và ăn chúng.
Mùi
thơm arôme cũng được đánh giá rất cao
bởi con người và được nhận biết bởi loài chó chiens, loài vật nầy có thể được huấn luyện để thu hoạch chúng.
Trong
số những loài khác nhau, trong số 40, có 4 loài được nổi bật bởi khía cạnh
thương mại.
▪ Tuber melanosporum, nấm cục đen truffe noire hoặc Perigord
▪ Tuber brumale,
hoặc nấm cục truffe magenca
▪ Tuber aestivum
hoặc nấm cục mùa hè truffe d’été hoặc
loại variété của nấm cục truffe Bourgogne (Tuber uncinatum)
▪ Tuber magnatum
hoặc nấm cục trắng Ý truffe blanche
italianne o del Piamonte, quý giá nhất, nhưng sự nuôi trồng của
nó vẫn còn rất mơ hồ.
▪ Tuber borchii o bianchetto ít giá trị hơn loại trước, nhưng
với một tiềm năng nông nghiệp rất lớn potentiel
agricole, bởi vì nó có thể mang những thân quả fruits trong đất cát sols
sableux.
▪ Đặc tính của đất sản xuất nấm cục đen truffe noire.
Nếu
người ta so sánh những phân tích khác nhau chững đất của những loại nấm truffes Nấm cục đen Tuber melanosporum, người thấy thường
nhất rắng những thông số phân tích cho phương pháp nuôi trồng nấm cục trufficulture (cát sables, bùn limons, đất
sét argiles, carbonates, vôi calcium,
sắt fer, potassium K , magnésium Mg, v…v…) có một sự thay đổi
Những
phân tích truyền thống trong nuôi trồng nấm cục trufficulture cung cấp cho chúng ta một số thông tin lợi ích trên
tiềm năng của nó để tạo ra những Nấm cục đen Tuber melanosporum, nhưng cấu trúc của đất và những thông số của
hoạt động sinh học activité biologique dần dần trở nên quan trọng
hơn.
Để xác
định tiềm năng của một truffe Nấm cục
đen Tuber melanosporum của đất,
người ta phải quan sát hồ sơ của chúng, xác nhận sự hiện diện của carbonates và
phân tích độ pH của nó nằm trong khoảng giữa 7,5 và 8,5.
Đất
phải được lọc, thấm, và thông khí. Để
biết đất có những carbonates hay không, người ta có thể thực hiện một thử
nghiệm trên mặt đất, lấy vài giọt nước khắc eau-forte ( acide nitric dùng để
chạm khắc trên miếng đồng ) hoặc salfumán mạnh trên đất và kiểm tra độ sủi bọt
của nó.
▪ Bảo trì đất sol
Khi những
đồn điền bắt đầu sản xuất ra mélano,
bảo dưởng đất đai là bao gồm :
- thông thoáng khí vào tháng 3 mars và tháng 4 avril
để thúc
đẩy sự thoáng khí và tạo điều kiện cho sự tăng trưỏng của những nấm cục
truffes.
Nếu
loài cỏ có xu hướng phát triển sau một mùa xuân ẩm ướt printemps humide, người ta sẽ bảo đảm cắt cỏ hoặc cắt quay gyrobroyer cỏ.
Đối với
sự sản xuất nấm cục mùa hè truffe d’été,
công việc làm đất sol có thể có diển
ra sau vụ mùa thu hoạch nấm, nghĩa là vào mùa thu.
▪ Kiểm soát nước eau
Sự tăng
trưởng của Nấm cục đen Tuber
melanosporum được biết một giai đoạn nghiêm trọng trong mùa hè trong
thời gian nơi đây nó đang tăng trưởng quan trọng nhất.
Sự tưới
nước tốt nhất của những Nấm cục đen Tuber
melanosporum bị đốt cháy là cần thiết để cứu của những cơ thể thân quả nấm khô
hạn nằm trong đất.
Nấm cục
có thể chịu đựng được từ 20 đến 30 ngày khô hân.
Tuy
nhiên nó đòi hỏi nên mang lại 20 mm nước cho tất cả 8 đến 12 ngày trong những
tháng mùa hè nếu không có mưa tự nhiên.
Nếu đợt
nắng nóng canicule được áp đặt, những
đóng góp nước có thể là thường xuyên hơn cứ
những 6 đến 8 ngày ). Đối với những nấm cục truffe Tuber uncinatum, sự tưới nước có thể được thực hiện vào mùa
hè trong cùng những điều kiện.
Kích thước của cây vật chủ và độ ánh sáng éclaircissage
Kích
thước của những Cây, nhắm vào một dạng ưa thích ánh nắng mặt trời nóng cháy
(cũng như tưới nước và thu hoạch ) và duy trì một sự cân bằng giữa sức mạnh của
cây chủ và nấm. Nếu cây mọc quá nhanh mà không bị chặt tỉa (thí dụ trên đất sâu
với tười nước ), tính độc của truffe Nấm cục Tuber sẽ giãm đi và sự sản xuất sẽ biến mất.
Việc
tỉa thưa cây éclaircissage sẽ bao gồm
khoảng không gian của sự chinh phục của những đốt cháy cho sự sản xuất nấm cục truffière.
Khi bị
đốt cháy không còn khoảng không gian để chi phục giữa những cây, sự sản xuất
của những nấm cục dùng lại.
Đồng
thời giãm sức sống của những cây và loại bỏ những cây không sản xuất, người ta
bảo đảm một sự phát triển bền vững với sự sản xuất lớn nhất.
Sự thụ tinh Fertilisation, cải
thiện amendement, cấy trồng inoculation
Sự thụ
tinh fertilisation là hiếm khi được
thực hiện trong nuôi trồng nấm cục trufficulture
mặc dù những phân bón hữu cơ đặc biệt (Fructitruf) hiện có trong thị trường.
một sự cải thiện chất vôi calcaire đôi khi được thực hiện đặc biệt nếu đất bị
calci hóa calcique, trên con đường
với một độ pH có xu hướng trung tính neutralité
(7) hoặc tính acide acidité (dưới 7).
Việc
cung cấp những bào tử spores cho một
sự cấy trồng bổ sung inoculation
complémentaire dần dần trở nên phổ biến hơn.
Những
người trồng nấm trufficulteurs thực
hiện của những « bẩy nấm cục truffes
» bằng cách thực hiện một cái giếng nhỏ (30 cm chiều sâu và 20cm đường kính )
nó được lấp đầy của một hỗn hợp của than bùn tourbe, nguyên tố chất khoáng tự nhiên vermiculite, đá vôi calcaire
và bào tử spores.
Trồng cây rễ nấm mycorhizés.
Đồn
điền plantation được thực hiện trên
một thế đất đáp ứng với những yêu cầu sinh thái của Nấm cục écologiques của nấm cục truffe, nghĩa là có tính đến những yếu
tố thuận lợi với :
- những mức độ của đất niveaux
du sol,
- vi khí hậu microclimat (cao độ altitude, phơi ngoài ánh nắng exposition),
- môi trường environnement
(vụ mùa trước précédent cultural, cây
sồi chêne chung quanh lô đất trồng nấm ).
▪ Đối
với sự sản xuất Nấm cục đen Tuber
melanosporum, người ta ưu tiên cho :
- cây sồi lông, sồi trắng hay sồi đen chêne pubescent Quercus
pubescens,
- và sồi xanh còn gọi là sồi nấm cục truffe chêne vert Quercus ilex .
Những
loài cây sồi khác đôi khi được dùng như là :
- sồi lá cuống chêne
pédonculé,
- sồi tóc chêne
chevelu,
- sồi chêne kermès,
-sồi chêne liège.
Những
rễ nấm mycorhizés được kiểm soát bởi
Inra và Ctifl.
▪ Đối
với sự sản xuất Nấm cục truffe Tuber aestivum / uncinatum, noisetier commun còn
được gọi là Noisetier cũng được gọi là Coudrier) giống Corylus và Cây charme tạo thành bời những cây và cây bụi thuộc họ
Bétulaceae là thông thường sử dụng.
Những
cây non được trồng chủ yếu từ tháng 2 février
và cho đến tháng 3 mars hoặc tháng 4 avril.
Chúng
nên được bảo vệ để chống lại những loài động vật gây hại ravageurs (loài sâu bnướm chenilles,
heo rừng sanglier, loài hươu chevreuil) và những bệnh của lá (bệnh
oïdium). Sự tưới nước là cần thiết cho sự phục hồi của những cây.
Thực phẩm và biến chế :
▪ Người
ta sử dụng những nấm cục sống truffes
crues, nấu chín cuites, dưới dạng
đậm đặc concentré, của nước ép jus, hương liệu mùi hương fumet hoặc tinh dầu nguyên chất essence.
▪ Những
nấm cục truffes Nấm cục đen Tuber đi vào trong một chuẩn bị đa dạng,
được phổ biến nhất là :
- những pâtés, những terrines và
những foies gras.
Nó cũng
ướp hương thơm đặc biệt vào trong rau cải salades,
những thực phẩm nhồi nhét farces, những
nước sauces, những bột nhão thực phẩm
pâtes alimentaires, cơm gạo riz và những trứng œufs.
Nó là
nguyên liệu sống crues hoặc chín cuits thơm ngon theo cách tự nhiên.
▪ Những
nấm truffes Nấm cục đen Tuber được
kết hợp với tất cả những động vật săn bắn gibier
và những gia cầm volaille, đặc biệt
cho gà tây đêm Noël dinde à Noël.
Một vài
lát mỏng đủ để làm thơm ngát cho toàn bộ món ăn plat.
▪ Nấm
cục đen truffe noire, cũng được gọi
là « vàng đen or noir » hoặc
«kim cương đen diamant noir »,
là một loại nấm rất hiếm và thần bí trưởng thành chín muộn để thu hoạch vào mùa
động từ giữa tháng 12 décembre đến cuối tháng 3 mars.
Ngay,
từ thời đại của họ, Lucullus và Apicius xem nấm cục truffe như một «Món quà
của những thần linh présent des dieux ».
Vào mùa
thu hoạch, những nấm nầy lang thang trên những thị trường thô điểm những hương
thơm của nấm cục truffes như Lalbenque, Uzès, Carpentras, Richerenches và những
nơi khác trong những cuộc hợp huyền thoại réunions
mythiques nầy nơi đây họ xoa vai trên nhiều nhân vật đầy màu sắc.
Nhưng
sau buổi chợ, sự đam mê nấu ăn và sự nếm thử hương vị món ăn với nấm cục
truffes.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire