Coprin chevelu
Nấm tóc mượt
Coprinus comatus (O.F. Müll.) Pers.
Agaricaceae
Đại cương :
▪ Tên nhị thức binomial được chấp
nhận :
Coprinus
comatus (O.F. Müller 1780) Pers., 17971
▪ Đồng
nghĩa :
◦ Agaricus comatus (O.F. Müll. 17802) (synonyme)
◦ Agaricus comatus var. comatus O.F. Müll. 1780 (synonyme)
◦ Agaricus comatus var. ovatus (Schaeff.) Fr. 1821 (synonyme)
◦ Agaricus cylindricus Sowerby 1799 (synonyme)
◦ Agaricus fimetarius Bolton 1788 (synonyme)
◦ Agaricus ovatus Schaeff. 1762 (synonyme)
◦ Coprinus comatus var. caprimammillatus
Bogart 1975 (synonyme)
◦ Coprinus comatus var. ovatus (Schaeff.)
Quél. 1886 (synonyme)
◦ Coprinus ovatus (Schaeff.) Fr. 1838 (synonyme)
Nấm tóc mượt Coprinus comatus, tên
tiếng Pháp thông thường của nó Coprin
chevelu, là một nấm basidiomycète ăn được của giống Coprinus thuộc họ Agaricaceae,
nó dễ dàng nhận ra với lớp biểu bì có những vẩy nổi bật nhỏ cuticule méchuleuse của mũ nấm bao phủ
gần như toàn bộ đến chân nấm stipe ( pied ).
▪ Mặc dù
nó là một loại nấm ăn được rất tốt, nhưng trước hết phải kể những lợi ích của
nấm Coprinus được công nhận trong y học truyền thống Tàu và ngày nay ở phương
Tây.
▪ Hành
động của nó dường như bao gồm những hiệu quả trong chống lại bệnh tiểu đường diabète loại I và loại II.
Nấm mèo Auricularia judae và Nấm
tóc mượt Coprinus comatus là những nấm vẫn còn quá ít để nhận biết một số nhiều
đặc tính của chúng.
Môi
trường sống .
Thực vật
hoại sinh Saprophyte, Nấm tóc mượt Coprinus
comatus phát tán rời rạt hoặc tập hợp thành nhóm, mọc trong những
cánh đống cỏ, những khu rừng mở, những khoảng trống, dọc theo những đường thậm
chí cả những khu vườn, trên những đất giàu chất đạm azote, những chất hữu cơ
phân hủy.
Như tên
gọi của nó, chất nền lý tưởng là một đất nung khói, bao gồm là những nơi có
phân chó, điều nầy giải thích cho sự hiện diện của nó trong những công viên.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật :
Mô tả tổng
quát Nấm Coprinus comatus
Mũ nấm trắng hình trụ dài gắp nếp
trên chân nấm của nó, nấm Coprin chevelu non trẻ, phát triển theo chiều cao, mở
ra nhẹ theo hình chuông cách mặt đất 20 cm.
Dưới mũ nấm của nó được bao phủ bởi
những nếp dài, màu trắng, cong, che dấu những phiến rời, màu hồng trước khi trở
thành màu đen và màu như mực.
Ở giai đoạn trưởng thành nầy, mũ
nấm không còn nữa, chỉ còn lại vết tích của quả bào tử sporophore tồn tại ở
chân dài và hình trụ, với một chổ phình nhỏ ở bên dưới chân, đôi khi còn lại
một vòng màng màu kem quan sát được ở phần dưới, gần mặt đất.
Hình dạng đặc trưng của nó như «
một ngón găng tay », búi tóc nhỏ của chúng, cho phép dễ dàng xác định nấm Coprin
chevelu. Coprinus
spadiceisporus giống như nấm tóc mượt Coprinus
comatus, nhưng rất nhỏ và hiếm khi được tìm thấy, có nguồn gốc ở Mỹ Amérique. Coprinus levisticolens có mùi rau diếp
xoắn chicorée, Coprinus sterquilinus là
một chất phụ gia cho phân bón fumier.
Khuẩn ty mycélium, bộ phận sinh sản mầu mỡ thực vật vô hình, cho thấy một sự
phân rã mạnh mẽ, đây là một hiện tượng điển hình của sự lan truyền những bào tử
ở những giống Coprinus, phát triển thành những sợi mịn màu trắng trên những
mảnh vụn hữu cơ khác nhau, Nấm tóc mượt Coprinus comatus là một nấm hoại sinh saprophyte.
Phiến sinh
bào tử hyménophore từ 5 đến 15 cm trong dạng
hợp nhất dễ vỡ khi mẫu vật còn non, tiến hóa thành hình trụ, sau đó biến thành một
dạng hình chuông khi nấm trưởng thành già. Những phiến màu trắng nhanh chóng
chuyển sang mà hồng nhạt sau đó trở thành đen.
Mũ nấm Chapeau
:
Hình
trụ dạng trứng từ 5 đến 13 cm cao khi nấm chưa mở ra, nhanh chóng trở nên hình
chóp và đo được khoảng 7 cm đường kính, lớp biểu bì bao phủ bởi lông len màu
trắng ngay từ lúc đầu, nhanh chóng chuyển sabng màu nâu xám, đĩa còn lại láng,
màu trắng đến màu beige, nhanh chóng trở thành màu nâu nhạt. Có mùi, còn lại
trong một thời gian dài của sự phát triển và làm nhớ lại mùi mùn humus,
Phiến nấm Lames
:
tách rời
với thân, không đều nhau, chặc chẽ, như được dán vào nhau, rộng 1 cm, màu trắng
sau đó biến thành màu đỏ nhạt cuối cùng màu đen, nhanh chóng và hoàn toàn hủy
hoại chảy rã ra theo tuổi.
Chân nấm stipe (pied) :
Ban đầu
gần như hoàn toàn ẩn trong mũ nấm, sau đó vươn lên đạt đến từ 5 đến 20 cm cao
và 2 cm đường kính cho những nấm lớn nhất, hình trụ, suy yếu ở đỉnh, phình tgo
ở bên dưới, rỗng, cứng và dễ vỡ, với một vùng chất xơ trắng có dạng vòng anneau gần ở bên dưới.
Chân nấm dài và trắng, phồng lên ở
bên dưới. Hoàn toàn trơn mịn và trắng lúc đầu, lớp biểu bì cuticule trở nên bào tử phòng mang những phần tử màu vàng nhạt hoặc
nhờn (nơi đây thuật ngử của nó là « lông tóc chevelu »). Nó tinh tế và ít mạnh cứng hơn nấm tóc mực đen coprin noir d'encre Coprinus atramentarius. Nó mọc thành nhóm trong những nơi thường xảy
ra bất ngờ, những khu vườn công cộng trong thành phố chẳng hạn.
Vòng nấm anneau hơi nhỏ, linh động, màng màu trắng, nhanh chóng tách rời,
rơi trên gốc chân nấm, và nhanh chóng biến mất và không có vỏ bao bên dưới chân
nấm volve
Nạt nấm Chair : rất mỏng, dễ vỡ, màu
trắng sau đó biến thành màu hồng và đen nhạt, có mùi, và hương vị yếu và dễ
chịu.
Bào tử Spores :
màu
đen, trơn láng, hình ellip, 6/8 x 10/15 µm ;
Ăn được Comestibilité : ăn rất ngon, khi còn rất non trẻ, phiến nấm còn màu
trắng.
Bộ phận sử dụng :
Thời gian
thu hoạch : từ mùa xuân đến mùa thu nhưng thường nhất vào tháng 9 và tháng 10.
Nấm này ăn được rất ngon gồm có
chân nấm tương đối có xơ giòn ngon hơn mũ nấm ( tùy theo khầu vị của ngưởi viết
) thường mọc thành nhóm hoặc mọc rải rác khắp nơi.
Mặc khác, nó rất dễ vỡ và phải tiêu
dùng những nấm non trẻ đặc biệt những chồi non.
Nấm hủy hoại rất nhanh và biến
thành đen và hủy hoại tan thành nước ( nghĩa đen ) cho đến khi biến mất hoàn
toàn, thường để lại chân nấm cứng, do đó khi thu hoạch phải rửa sạch và tiêu
thụ thật nhanh trong ngày.
Thành phần hóa học và dược chất :
● Thành
phần hoạt tính sinh học bioactifs.
▪ Những
đường glucides
Sử dụng
xét nghiệm yếu tố limulus G, số lượng (1 → 3) -β-glucane
đã được định lượng ở Nấm tóc mượt Coprinus comatus (ngoài ra
còn ở những nấm khác ).
Thử
nghiệm Limulus Factor G thường được sử dụng để đo lường hàm lượng thành phần (1
→ 3) -β-glucane trong huyết thanh của người do một bệnh nhiễm
trùng bởi những nấm gây bệnh champignons
pathogènes như là nấm Candida hoặc Aspergillus, để mà giúp những Bác sĩ lâm
sàng cliniciens chẩn doán sớm bệnh
nhiễm trùng infection.
Tuy
nhiên, nó cũng thích hợp để phát hiện hàm lượng :
- (1 → 3) -β-glucanes
trong
những trích xuất thô của polysaccharides của Nấm tóc mượt Coprinus comatus đã
được xác định như là có một hàm lượng «cao hơn» (1 → 3) -β-glucane, so với 18 loài nấm thuốc hoặc ăn được khác (Yang và
al., 2003).
● Cấu
trúc hóa học của một fucogalactane hòa tan trong nước, thu được từ polysaccharide
nội bào intracellulaire thô của khuẩn
ty mycelium Nấm tóc mượt Coprinus comatus, được đặc trưng hóa bởi phân tích đường và sự méthyl hóa méthylation cũng như bởi quang phổ spectroscopie RMN 1H và 13C.
Polysaccharide
đã bao gồm một mô hình lập đi lập lại của pentasaccharide (Fan và al., 2006).
● Phân tích thành phần .
Một
nghiên cứu của những hợp chất mùi thơm aromatisants
hiện diện trong Nấm tóc mượt Coprinus comatus (Dijkstra
và Wiken, 1976; Djikstra, 1976) đã cho thấy một loạt những hợp chất hiện diện
trong trích xuất nước của thân quả, bao gồm :
▪ 3 octanone
▪ 3-octanol
▪ 1-octène-3-ol
▪ 1-octanol
▪ 2-méthyl-2-pentène-4-olide
▪ 1-dodécanol
▪ acide caprylique
▪ 5’-GMP
▪ acide glutamique
▪ acide n-butyrique và acides isobutyriques (chánh thức).
Thật
thú vị, một hỗn hợp 37 hợp chất hiện diện trong trích xuất đã có một hương vị
mạnh hơn trích xuất tự nhiên, cho thấy sự hiện diện của những thành phần là che
khuát hoặc làm giãm cường độ hương vị.
Thành
phần acides béo (bằng % của tổng số những acides béo ) của Nấm tóc mượt Coprinus
comatus được tóm tắc trong bản dưới đây:
Loại acides
béo Thân quả Thân
Saturated fatty acids 20.0 31.8
Monounsaturated fatty
acids 32.3 68.6
Polyunsaturated fatty
acids 26.0 61.8
Palmitoleic acid 9.63 14.6
Palmitic acid 0.199 1.77
Stearic acid 3.46 6.6
Oleic acid 6.17 5.07
Linoleic acid 25.8 59.5
Arachidic acid 1.66 3.69.
(Data from Yilmaz et al., 2006)
Đặc tính trị liệu :
Những
nấm chứa những đường glucides khác nhau chứng minh của những hiệu quả cụ thể
trên sức khỏe.
Phân
tích hàm lượng đường glucides của những nấm chỉ ra rằng nấm nầy có chứa một tỹ
lệ lớn chất xơ thực phẩm fibres
alimentaires. Những thứ nầy đóng một
vai trò quan trọng trong sự :
- điều hòa đường ruột régularité
intestinale,
- và ngăn ngừa táo bón constipation.
Những
nấm cũng chứa thành phần :
- kháng tinh bột amidon
résistant,
một
loại đường sucre, dưới sự hành động
của hệ thực vật đường ruột flore
intestinale ( vi khuẩn đường ruột ), tinh bột amidon sau đó trải qua quá trình lên men fermentation.
Tinh
bột nầy amidon chuyển đổi phục vụ như
thức ăn cho những vi khuẩn chứng đau bụng bactéries
coliques và cũng giúp duy trì một sức khỏe tgốt đường ruột bonne santé intestinale
Nấm tóc mượt Coprinus comatus không thiếu
những đặc tính trên sức khỏe.
Ngoài
việc thúc đẫy :
- sự tiêu hóa digestion,
- và tranh đấu chống lại táo bón constipation,
- và những bệnh trĩ hémorroïdes
theo y
học truyền thống tàu, Nấm tóc mượt Coprinus comatus hiện nay được công nhận
rộng rãi cho những hiệu quả chống lại :
- bệnh tiểu đường diabète loại I và loại II.
Hành
động giãm hạ đường máu hypoglycémiante
của nó cho phép, thật vậy, làm gia tăng sự sản xuất kích thích tố nội tiết insuline và do đó :
- làm giãm mức độ đường glucose trong máu của những người
mắc bệnh tiểu đường diabétiques.
Đặc tính đặc biệt nầy là do sự hiện diện của nguyên
tố khoáng vanadium V trong thành phần hóa học của Nấm tóc mượt Coprinus
comatus.
Vanadium
là một nguyên tố vi lượng oligo-élément
hiện diện trong tự nhiên, nhưng với một số lượng nhỏ trong cơ thể con người.
Bằng
cách thúc đẩy sự sản xuất kích thích tố nội tiết insuline và bình thường hóa mức độ đường sucre trong máu sang, Nấm tóc mượt Coprinus
comatus là một đồng minh rất thú vị trong chữa trị :
- bệnh tiểu đường diabète,
nhiều
hơn nữa, nó không có những phản ứng phụ nếu nó được tiêu dùng với một liều
lượng đúng cách.
Song
song điều đó, Nấm tóc mượt Coprinus comatus là một thực
phẩm lựa chọn để tìm và giữ do sự đóng góp năng lượng rất thấp (205 calories chỉ
cho 100 g).
Còn
nữa, nó cho phép giúp những người mắc bệnh tiểu đường diabétiques trong việc :
- giãm cân perte de
poids của họ.
Nghiên cứu :
● Hoạt
động chống khối u anti-tumorale
Trích
xuất nước của Nấm tóc mượt Coprinus comatus
gần đây đã được xác định là có chứa những hợp
chất chống khối u antitumoraux mạnh
cho ung thư vú cancer du sein.
Như ung
thư vú cancer du sein là ung thư được
chẩn đoán thường nhất ở những phụ nữ trên toàn thế giới và không có liệu pháp hiệu quả cho ung thư vú cancer du sein độc lập với kích thích tố
sinh dục nữ œstrogène ( ER- ), kết quả này rất có ý nghĩa. Nó đã cho
thấy rằng, tiềm năng chống ung bướu antitumoral
của trích xuất nước được biểu hiện theo 3 cách :
◦ 1) nó
ức chế sự tăng trưởng của những tế bào ung thư cellules cancéreuses của vú ER + và ER-
◦ 2) nó
gây ra cái chết của những tế bào cellules
ER + và ER- (lập trình tự hủy apoptose)
◦ 3) nó
đã ức chế sự hình thành của quần thể khối u colonies
tumorales trong ống nghiệm in vitro (Gu và Leonard, 2006)
Một
chất đạm protéine kiềm được gọi là y3, được làm tinh khiết từ những thân
quả fructifications của nấm Nấm tóc mượt Coprinus
comatus, đã đuợc chứng minh là ức chế một dòng
tế bào ung thư cellules cancéreuses dạ
dày gastriques với một CI50 12 µg /
mL (Wu và al., 2003).
Hoạt
động huyết thanh lysozyme được sử dụng như chỉ số chung của năng lực của hệ
thống miễn nhiễm système immunitaire.
Ngoài
việc phân hủy những đường đa polysaccharides hiện diện trong những thành vách
của những tế bào vi khuẩn cellules
bactériennes, lysozyme cũng có
thể liên kết với bề mặt của một số nhất định vi khuẩn bactéries xâm nhập và giúp những bạch huyết cầu globules blancs nuốt chúng dễ dàng hơn.
Những
nghiên cứu của tàu đã chỉ ra rằng
những dung dịch của polysaccharides trích xuất của Nấm tóc mượt Coprinus comatus và được quản
lý dùng cho những chuột có khả năng làm gia tăng hoạt tính lysozyme huyết thanh
(Li và al., 2001).
● Hiệu quả hạ đường máu hypoglycémiques.
Một số nghiên cứu đã chứng minh rằng
tiêu thụ Nấm
tóc mượt Coprinus comatus có
thể giúp điều hòa những nồng độ đường glucose trong máu sang.
Nuôi những chuột với một chế độ ăn
uống chứa những thân quả được sấy khô nghiền nát thành bột của Nấm tóc mượt Coprinus comatus (một phần ba lượng thức
ăn tiêu thụ của chúng, theo trọng lượng cơ thể ) đã làm giãm nồng độ đường glucose
huyết tương plasmatique và cải thiện đường glucose trong phúc mạc intrapéritonéal.
Ngoài ra, việc tăng trọng lượng cơ
thể đã được dừng lại, mặc dù sự đóng góp tổng số năng lượng apport énergétique giãm không đáng kể.
Đường glucose huyết tương plasmatique đã giãm nhẹ 10 giờ sau khi
quản lý tiêm vào bên trong dạ dày intragastrique
Nấm tóc
mượt Coprinus comatus sấy
khô (3,6 g / kg của trọng lượng cơ thể ).
Những kết quả cho thấy tạo ra từ
từ, một hiệu quả hạ đường máu hypoglycémiant
nhẹ của Nấm tóc mượt Coprinus comatus ở chuột bình thường, kèm
theo những hiệu quả chuyển hóa chất biến dưởng métaboliques có khả năng làm gián đoạn gia tăng trọng lượng cơ thể (Bailey
và al., 1984).
Trong những nghiên cứu khác, hoạt
động hạ đường máu hypoglycémique của Nấm tóc mượt Coprinus
comatus lên men giàu nguyên tố
khoáng vanadium đã được nghiên cứu.
Những muối vanadium có một hoạt động bắt chước insulin insulino-mimétique, và những hợp chất của nguyên tố khoáng vanadium
đã nghiên cứu như một chất có tiềm năng hoạt động để thay thế insuline bởi
đường uống.
Những muối vanadium bắt chước hầu
hết của những hiệu quả kích thích tố nội tiết insuline trong ống nghiệm in vitro và cũng gây ra một bình thường
hóa đường máu normoglycémie và cải
thiện sự cân bằng nội mô homéostasie của
đường glucose ở những loài gặm nhấm mắc bệnh tiểu đường diabétiques phụ thuộc vào insuline insulinodépendants và đề kháng với insuline trong cơ thể sinh vật
sống in vivo.
Một nghiên cứu cho thấy rằng dung
dịch của sự lên men của Nấm tóc mượt Coprinus comatus và muối vanadium vanadate
de sodium đã ức chế sự gia tăng đường máu glucose sanguin ở chuột souris (Han và al., 2003).
Đường
máu glycémie và HbA1c (hémoglobine
glycosylée - được sử dụng để đo lường nồng độ đường glucose trong huyết tương plasma) của những chuột đã được phân
tích.
Ngoài
ra, khả năng chịu đựng đường của những chuột bình thường cũng đã được xác định.
Một khi
mà những chuột đã nhận được những khuẩn ty mycéliums
giàu nguyên tố vanadium, đường máu glycémie
và HbA1c của những chuột tăng đường máu hyperglycémiques
đã được giãm, sự gia tăng đường máu glycémie
gây ra bởi chất adrénaline đã được ức chế và khả năng chịu đựng đường của những
chuột bình thường đã được cải thiện.
Ngoài
ra, trọng lượng cơ thể của những chuột đường máu cao hyperglycémiques gây ra bởi chất alloxane đã gia tăng dần dần.
Trong Nấm tóc mượt Coprinus
comatus lên men, nguyên tố khoáng vanadium với những liều lượng thấp hơn
kết hợp với Nấm
tóc mượt Coprinus comatus đã gây ra một sự giãm đáng kể của những nồng độ đường glucose
trong máu sanguin và HbA1c ở những
chuột mắc phải bệnh tăng đường máu hyperglycémiques
(Han và al., 2006).
Những
trích xuất polysaccharides từ nuôi cấy những khuẩn ty mycélienne của Nấm tóc mượt Coprinus comatus và được quản lý dùng bởi
đường phúc mạc intrapéritonéale ở
những chuột bạch với một liều 300 mg / kg đã ức chế sự tăng trưởng của những
ung thư sarcoma cancers du sarcome 180 ( là loại ung thư hình thành trong những mô
liên kết tissus conjonctifs và những
mô hỗ trợ ) và Ehrlich lần lượt là 100% và
90%, tương ứng (Ohtsuka và al., 1973). .
● Hoạt động chống tuyến trùng anti-nématode.
Nấm tóc mượt Coprinus comatus chứa những hợp chất tiêu
diệt những loài tuyến trùng nématodes
(Li và Xiang, 2005).
Cụ thể nhất, nấm nầy làm bất động,
giết chết và sử dụng cho loài tuyến trùng nématode
Panagrellus redivivus sống tự do và tuyến trùng nút rễ Meloidogyne arenaria.
Những loài tuyến trùng được thêm
vào môi trường cấy của Nấm tóc mượt Coprinus comatus được trồng trong thạch dinh dưởng trở nên không hoạt
động trong vài giờ .
Dưới
kính hiển vi điện tử microcopie
électronique cho thấy rằng Nấm tóc mượt Coprinus comatus lây nhiễm vi khuẩn Panagrellus
redivivus bằng cách sản xuất ra những chốt nhỏ thâm nhập từ đó những sợi nấm hyphes xâm chiếm những cơ thể của loài
tuyến trùng nématodes.
Trong
vài ngày, những tuyến trùng nématode bị
nhiễm bệnh infecté được ăn và tiêu
thụ bởi những sợi khuẩn ty hyphes mycéliens.
Người
ta nghĩ rằng điều nầy có thể là một cơ chế để giúp nấm phát triển mạnh trong
những môi trường nghèo chất đạm azote
(Luo và al., 2004).
● Hoạt động chống oxy hóa antioxydante.
Có hơn 50 năm, người ta đã khám phá
ra rằng nấm xù xì có chứa chất ergothionéine C9H15N3O2S,
một thành phần của thiol có đặc tính chống oxy hóa antioxydantes (Ergothioneine). Hoạt động chống oxy hóa anti-oxydante sau đó đã được xác nhận (Badalyan
et al., 2003).
● Hoạt
động kháng vi khuẩn antimicrobienne.
Một nghiên cứu ở Nga cho thấy rằng
những chủng khác nhau của giống Coprinus, bao gồm Nấm tóc mượt Coprinus comatus, có một hoạt động kháng
vi khuẩn antimicrobienne (Ershova và al.,
2001).
Hiệu quả xấu và rủi ro :
Liều lượng và phản ứng phụ .
◦ Nấm tóc mượt Coprinus comatus, trong khi đó, nó chỉ
có rất ít phản ứng phụ. Nó có thể, trong những
trường hợp hiếm hoi, gây ra những rối loạn tiêu hóa. Ngưng ngay tiêu thụ nấm và
hỏi ý kiến của Bác sĩ chữa trị.
◦ Tránh
thu hoạch những Nấm tóc mượt Coprinus comatus trong
thành phố, chung quanh những đường phương tiện giao thông bởi vì nó sẽ hấp thụ
nhiều những nguyên liệu ô nhiễm.
Mặt
khác, đây là một loại nấm nhạy cảm với phóng xạ radiosensible đặc biệt đã bị bị ảnh hưởng bởi hoạt tính phóng xạ radioactivité của thảm hoạ Tchernobyl,
vào thời điểm đó.
● Phụ nữ mang thai và cho con bú .
Nói
chung, sự tiêu thụ Nấm tóc mượt Coprinus comatus
không được đề nghị ở những phụ nữ mang thai enceintes, và cho con bú allaitantes, hoặc ở những trẻ em nhỏ.
Mới bắt
đầu tiêu thụ nấm y học nầy, tốt hơn là theo dỏi bởi Bác sĩ chữa trị để mà thích
ứng với liều lượng và thời gian dùng theo nhu cầu của bạn.
Đây là
cách tốt nhất để tận hưởng đầy đủ tất cả những lợi ích của Nấm tóc mượt Coprinus
comatus trên cơ thể.
Ứng dụng :
Sử dụng .
Những
đặc tính y học của Nấm tóc mượt Coprinus comatus
được nghiên cứu trong lĩnh vực của sự điều hòa
:
- bệnh tiểu đường diabète,
- những rối loạn tiêu hóa troubles digestifs.
Thực phẩm và biến chế :
▪ Lợi
ích ẩm thực Culinaire.
Nấm tóc mượt Coprinus comatus được tiêu thụ ở trạng thái còn non, ở dạng hình trụ, nạt
thịt và phiến của nó vẫn còn trắng. Nếu mùì hương của nó nhẹ nhàng, nấm, hương
vị dễ chịu, và chắc của nó.
Được
đánh giá cao vể phẩm chất ẩm thực qualités
gastronomiques của nó, điều quan trọng sự thu hoạch của nó trước khi nó trở
nên đen và bị hủy hoại..
◦ Sau
khi đã được thu hoạch, chỉ một phương pháp duy nhất là :
- làm
ngưng lại sự trưởng thành, người ta có thể bảo quản nhiều ngày bằng cách ngâm
hoàn toàn trong nước hoặc ăn liền, sống hoặc nấu chín, trong thời gian ngắn nhất,
ngay lập tức.
- Người ta có thể, sau khi
rửa thật sạch chia thành phần nhỏ để vào trong tủ đông bảo quản để sử dụng
trong năm ( chú ý không xả đá mà để vào trực tiếp vào món ăn sau khi nêm nếm
xong thưởng thức như nấm tươi trong súp, trong mọi món canh, nếu xả đá nấm sẽ
nhũng nhủng hoại đi ).
Người ta có thể chế biến trong sốt
trắng. Người ta cũng có thể ăn sống, trong
salade.
◦ Sự
tiêu thụ thức uống có alcool với Nấm tóc mượt Coprinus comatus là không nguy hiểm, đây
không phải là trường hợp với nấm anh em họ Nấm Coprinopsis atramentaria (Nấm
tóc mực đen coprin noir d'encre).
▪ Làm
thế nào nấu ăn với Nấm coprin chevelu ? Công thức món ăn lý tưởng.
◦ Nấm tóc mượt Coprinus comatus
được xem như một thức ăn tuyệt với, với điều kiện nấm phải non trẻ đặc biệt
chồi non chưa mở, nó còn màu trắng trên đầu và dưới mũ nấm, có nghĩa là hoàn
toàn trắng tại thời điểm thu hoạch, nếu có vết đen vứt bỏ.
Chân nấm cũng được quan tâm ăn được
và ngon.
Nó có
một hương vị rất tốt và tinh tế. Nó có thể ăn sống, trong salade hoặc nấu chín
như trfong canh chua, canh khoa mỡ ….., hoặc nhanh chóng cho bơ sau đó trang
trí với crème fraiche, persil và / hoặc tỏi, ăn kèm với thịt trắng hoặc trứng
tráng chiên omelette.
Người
ta có thể dùng kèm với rượu đỏ. Nấm tóc mượt này không thích hợp với alcool.