Amanite tue-mouches
Nấm tán giết ruồi
Amanita muscaria (L. : Fr.) Lam..
Amanitaceae
Đại cương :
Nấm tán giết ruồi Amanite
tue-mouches Amanita
muscaria hiện diện phong phú từ tháng 8 đến tháng 11 ở những đồng
bằng cũng như ở trên núi, ở phía nam cũng như trong miền bắc.
Người ta tìm thấy dưới những cây gỗ
cứng (như cây sồi hêtres và đặc biệt
cây bạch dương bouleaux) như dưới
những Cây có nhựa résineux và thích
những đất acides.
Thường được phổ biến bởi những phim
ảnh hoạt hình và những truyện tranh, Nấm tán giết ruồi Amanite tue-mouches nầy
phải có những mũ nấm màu đỏ với những đốm màu trắng thường được sử dụng như một
hình mẫu archétype của nấm.
Nấm không gây chết người Nấm tán
giết ruồi Amanita muscaria nhưng nó vẫn được xem như là
một nấm độc hại champignon toxique.
Một đến 3 giờ sau khi ăn nuốt vào,
những rối loạn ảo giác hallucinatoires
và dạ dày gastriques xảy ra.
Những nguyên hoạt chất được tập
trung chủ yếu ở những lớp biểu bì màu đỏ cuticule
rouge dễ dàng tách ra khỏi mũ nấm.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật :
Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria phát triển có
những một bào tử sporophore có khích
thước lớn dễ dàng để xác định. Loài Nấm tán giết ruồi nỗi lên khỏi mặt đất như
một quả trứng được bao bọc trong một mô mịn của một lớp màng vạn năng voile universel.
Sự mổ xẻ nấm trong giai đoạn nầy
cho thấy một lớp màu vàng dưới tấm màng che, đây là đặc trưng của nó để giúp
xác định.
Trong quá trình phát triển, màu đỏ
màu đỏ xuất hiện xuyên qua lớp màng bị phá vỡ và những mụn cóc trở nên kém nổi
bật hơn, nó không đổi kích thước nhưng dường như hơi co lại bởi so với bề mặt
của nạt thịt đỏ.
▪ Mũ nấm, khi trưởng thành đo được từ 8
đến 20 cm đường kính, ban đầu có hình cầu, trở nên lồi lan rộng ra, thay đổi
hình dạng để trở nên hình dạng bán cầu, sau đó dần dần trở nên phẳng hơn khi
trưởng thành, được bao phủ bởi một lớp biểu bì, màu đỏ đến màu đỏ cam bóng
láng. Sau khi trồi lên khỏi mặt đất mủ nấm được bao phủ bởi những mụn trắng có
dạng hình kim tự tháp sau đó trở nên vàng nhạt, rìa láng. Đây là vết tích còn
lại của một màng bao đa năng, bao phủ bảo vệ mầm non nấm trước khi trồi lên
khỏi mặt đất.
▪ Những
phiến lames, rời, chặt chẽ, không đều nhau, màu trắng, giống như một dấu
vết của bào tử empreinte de spore. Những
bào tử hình bầu dục đo được 9-13 x 6,5-9 micromètres, và không phải là amyloïdes,
điều nầy có nghĩa là nó không chuyển sang màu xanh dương khi nó áp dụng với
thuốc thử Melzer réactif de Melzer.
Chân
nấm, từ 5 đến 20
cm cao cho từ 1 đến 2 cm đường kính, và có cấu trúc sợi hơi bở đây là đặc trưng
của những nấm lớn.
Lúc đầu ngắn, to và đầy đặn, dài ra dần dần và trở
nên rỗng và có thể đo được đến 30 cm, có lông tơ, với những đường vân đồng tâm
ở bên dưới, màu trắng nhưng đôi khi có màu vàng, đặc biệt bên dưới vòng và nơi
tiếp giáp với củ nạt bulbe
Bao ở bên dưới chân nâm volve (hoặc củ nạt bulbe)
mang những phần dư lại của màng đa năng voile universel dưới dạng một hoặc 2
vòng đồng tâm. anneaux concentriques.
Giữa những vòng nầy và những phiến, những dấu vết của một phần màng ( bao gồm
những phiến nấm trong thời gian phát triển ) có dạng của một vòng trắng. Cái
nầy trở nên khá rộng và rời rạt theo thời gian.
Vòng
Anneau : phong phú, rách nhỏ hoặc xuất hiện những răn to, tồn tại
không mất, màu trắng hoặc màu vàng nhạt. Nấm thường không phát ra những mùi
khác hơn là mùi đất.
Bộ phận sử dụng :
Thu
hoạch và chế biến.
Người
ta thu hoạch nấm nầy vào đầu mùa thu, thời điểm nấm phát triển tăng trưởng,
người ta cắt thành từng lát và phơi khô dưới ánh nắng mặt trời hoặc trong lò
nướng, sau đó người ta nghiền nát thành bột và bảo quản trong lọ đậy kín và để
vào nơi khô ráo.
Người
ta cũng chế biến một dung dịch trong cồn teinture
alcoolique.
Thành phần hóa học và dược chất :
● Đặc tính
vật lý và hóa học
Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria có một mùi hơi
rõ rệt, một hương vị mặn.
Letellier đã phát hiện ra trong
những loài lân cận, một chất đặc biệt được gọi là amanitine, và theo ông,
nó nằm trong nguyên chất độc principe
vénéneux của loài nầy.
Vấn đề nầy, có độ kiềm chưa chắc
chắn, sẽ được tồn tại, kết hợp với nấm nấm kali fungate de potasse, trong những nấm.
(Reveil tìm thấy trong Nấm tán giết
ruồi Amanita muscaria có 3
nguyên chất độc hại principes toxiques
khác nhau :
▪ 1° một
nguyên chất dễ bay hơi, có mùi, tồn tại rất ngắn ngủi thu được bởi sự chưng cất
nước distillation aqueuse.
Nước
cất nầy có thể được điều chế bằng cách chưng cất 1 phần nấm với 2 phần nước, ba
lần, cuối cùng để có kết quả 1 phần nước cất eau distillée.
Nó
trong suốt, trung tính, sau khoảng 15 ngày nó trơ ra bất động.
▪ 2° một
nguyên chất trích xuất principe extractif,
hòa tan trong nước, tiếp cận với chất amanitine
của Letellier ;
▪
3" một nguyen chất nhựa résine
résineux, hòa tan trong alcool, không tan trong nước khi nó trong dạng
nguyên chất, nhưng có thể hòa tan với sự trợ giúp của những chất liệu trích
xuất.
● Những chất hóa học.
Nấm tán
giết ruồi Amanita muscaria đại
diện cho một thách thức đối với những nhà hóa học, nhà sinh hóa, và những nhà
sinh họ. Những mục tiêu là như sau :
◦ (1) sự
phát hiện và phương phức hnàh động của những chất có liên quan trong hiệu quả hướng
tâm thần psychotrope có khả năng dẫn
đến việc sáng tạo ra một thuốc mới.
◦ (2) phân
lập và xác nhận hóa học của những sắc tố pigments
trách nhiệm của màu sắc đặc trưng của mũ nấm, và
◦ (3) phát
hiện ra những thành phần bất thường. khác nhau.
Thật
ngạc nhiên, phần lớn của những chất được sản xuất có liên quan đến hóa học và
sinh học di truyền biogénétiquement, một
kiến trúc phân tử moléculaire phổ
biến liên kết hầu hết của những cấu trúc (Eugster 1969).
▪ Những
độc tố thật sự toxines Mặc dù những
thành phần hóa học của những nấm đã được nghiên cứu kỹ lưỡng, một vài chi tiết
vẫn chưa được rõ ràng, nó có liên quan giữa những đặc tính hóa-lý physicochimiques của những thành phần
hoạt động và phương thức của sự tiêu thụ.
Chẳng
hạn,
◦ Những
người Mexicains ăn những thân quả carpophore
của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria
không lớp biểu bì đã được gở bỏ và cũng đổ bỏ nước nấu (Pe´rez-Silva &
Herrera-Suarez 1991).
▪ Chất muscimol và acide iboténique có thể
là những nguyên chất hoạt động sinh học biologiquement
actifs của những loài quan tâm, những những thành phần hoạt động khác bị
nghi ngờ.
Nhóm
nghiên cứu khác nhau đã thực hiện một sự xác định gần như cùng lúc của sự phân
lập và cấu trúc của những thành phần hoạt động (Takemoto & Nakajima 1964c,
Bowden & Drysdale 1965, Eugster, Müller và Good 1965, Good, Müller và Eugster
1965).
▪ Những
chất là những dẫn xuất của isoxazole:
- acide iboténique 1 (từ «iboten-gu-take», tên Nhật Bản của Nấm Amanita
strobiliformis, trước đây được gọi là «premuscimol»; Good và al. 1965, Eugster
& Takemoto 1967), phản ứng khử carbon décarboxilation
của nó mang lại muscimol 2 ; những thành phần của nó chỉ ghi nhận trong những
dưới loài sous-espèces Nấm tán giết
ruồi Amanita muscaria và Amanita
pantherina (Benedict và al. 1966).
Acide iboténique (panthérine, agarine), tức
là acide a-amino-3-hydroxy-5-isoxazoloacétique 1, không màu (tinh thể C5H6N2O4,
trọng lượng phân tử 158,11, điểm nóng chảy ( phị điểm ) point de fusion 150-152 ° C), dễ dàng hòa tan trong nước lạnh.
Tất cả
nổ lực của sự khử nước déshydratation
dẫn đến một sự khử carbon décarboxilation
tạo ra một số lượng lớn chất muscimol,
điều nầy cho thấy rằng một bữa ăn của những nấm nấu chín, hoặc thậm chí sau khi
tiêu hóa trong dạ dày digestion gastrique,
sẽ chỉ chứa chất sau và sẽ là yếu tố trách nhiệm gây ra những triệu chứng
chánh.
▪ Da
biểu bì màu đỏ của mũ nấm và mô tế bào màu vàng bên dưới lớp biểu bì có chứa
một số lượng lớn nhất, điều nầy giải thích những thực hành để gở bỏ nó (Catalfomo
& Eugster 1970a).
- Muscimol,
cụ thể là 5- (aminométhyl) -3-hydroxyisoxazole 2, được phân lập từ Nấm tán giết
ruồi Amanita muscaria, không
màu ( tinh thể, C4H6N2O2,
trọng lượng phân tử 114,10, điểm nóng chảỵ phị điểm ) 175 x phân hủy ) dễ dàng
tan trong nước lạnh (Bowden & Drysdale 1965).
Đồng
phân lactame isomère lactame của muscimol
kết quả của một sắp xếp hình ảnh photo-réarrangement của những cấu trúc cuối
cùng (Goéth và al., 1967) và được sản xuất trong quá trình phân lập.
- Muscazone, cụ thể là acide
a-amino-2,3-dihydro-2-oxo-5- oxazoleoacétique 3, không màu ( tinh thể C5H6N2O4,
trọng lượng phân tử 158,11, phân hủy ở 190 ° C), cũng như cấu trúc được xác
nhận bởi tổng hợp ( Eugster và al 1965, Fritz và al 1965, Reiner và Eugster
1967).
Chất muscazone thể hiện những hoạt động dược
lý nhỏ so với những chất trước đó.
- cyclosérine (myxomycine, séromycine,
D-4-amino-3-isoxazolidone) là một tác nhân chống bệnh lao antituberculeux, kháng vi khuẩn antimicrobien
thể hiện một sườn công thức carbone squelette
carboné tương tự như chất muscimol.
Nó được
biết là gây ra những hiệu quả trên hệ thống thần kinh trung ương système nerveux central, nhưng với một với một thời gian trễ dài hơn :
- buồn ngủ somnolence,
- nhầm lẫn confusion,
- và hồi hợp nervosité
phân biệt những hiệu quả không mong muốn (Mandell & Sande, 1992)
- Những
dẫn xuất của thiomuscimol đã được
chuẩn bị, nó thể hiện những đặc tính kết nối cực kỳ mạnh, thậm chí có khả năng thay
thế GABA từ thụ thể của nó (Melikian và al., 1992).
▪ Những
chất hoạt động khác (x) :
- -R-4-hydroxy-pyrrolidone-(2), có cấu
trúc liên quan chặc chẻ với acide iboténique
và với muscimol, đã được tìm thấy ở Nấm
tán giết ruồi Amanita muscaria
(Matsumoto và al. 1969a).
Trong
khung khổ hóa học nầy chimique được
phổ biến trong một số nhất định vi nấm micromycètes ( nấm rất nhỏ phải quan sát
dưới kính hiển vi ) ; nó thường thể hiện một hoạt động sinh học mạnh biologique puissante chống lại những vi
khuẩn bactéries và những nấm ( chẳng
hạn auréothrycine, équisétine).
- Acide tricholomique, một dẫn xuất dihydro có liên quan chặt chẻ với acide iboténique, một acide đã được xác
định trong Tricholoma muscarium (Takemoto & Nakajima 1964b) và cấu trúc của
nó đã được xác định bởi sự tổng hợp (Iwasaki và al. 1965).
- muscarine từ lâu đã được xem như nguyên
hoạt chất của Nấm tán giết ruồi Amanita
muscaria (Schmiedeberg & Koppe 1869, Kołgl và al. 1957, Cox và
al. 1958), do một hành động được cho là trên hệ thống thần kinh trung ương système nerveux central.
◦ Sự
xuất hiện với một số lượng nhỏ của muscarine,
cụ thể tétrahydro-4-hydroxy-N, N, N-5-tétraméthyl-2-furanméthanaminium,
(0,0002–0,0003%, fw; chlorure : lăng kính mạnh prismes robustes, phị
điểm (điểm nóng chảy) point de fusion
180–181 x ( Ko¨gl và al., 1957, Cox và al., 1958) đã được thiết lập ở Nấm tán
giết ruồi Amanita muscaria
(Eugster & Schleusener, 1969; Catalfomo và Eugster, 1970a).
▪ Một
thành phần hoạt động khác có thể :
- bufoténine
(5-hydroxy-N, N-diméthyltryptamine),
đã được
đề xuất (Waser 1967), nhưng sự hiện diện của chất gây ảo giác hallucinogènes indoliques như là :
- psilocybine, thường
được suy đoán, chưa được xác nhận.
▪ Sắc
tố pigments, Màu sắc tươi của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria đã thúc đẩy
những cuộc điều tra trong nhiều nhóm nghiên cứu, ngày nay, phần lớn những đặc
tính cấu trúc của những sắc tố pigments
đã được làm sáng tỏ (Musso, 1982).
- Muscarufin.
là một
thành phần chánh, nó có lẽ là một dẫn xuất giả định putatif của một terphénylquinone (Ko¨gl & Erxleben 1930); nhưng
những cố gắng triển khai bởi những nhóm khác nhau để tái tạo những kết quả sớm này
đã không thành công (Musso, 1979).
Musso cũng
đã đề xuất một cấu trúc khá mới, muscaflavine,
cho một sắc tố vàng pigment jaune, kết quả được chứng thực bởi đường
sinh tổng hợp biosynthèse bao gồm
những phân cắt clivages phân kỳ oxy
hóa oxydants divergents trước đó của L-DOPA,
của những giai đoạn chu kỳ tạo ra chất muscaflavine
cùng với :
- acide bêtalamique, acide stizolobique và acide
stizolobique
(Mabry 1967, Saito, Komamine và Senoh 1975, 1976, Saito,
Komamine và Hatanaka 1978).
Cấu
trúc đã được xác nhận bởi sự tổng hợp (Barth, Kobayashi & Musso 1979,
Burger và al. 1981).
▪ Những
hợp chất khác nhau, những muscaaurines
I – VII, đã được chứng minh là những sắc tố pigments
trách nhiệm của màu đỏ-cam đặc trưng của những mũ nấm của nhiều Nấm amanita
khác, như là Nấm tán giết ruồi Amanita
muscaria (Do¨pp & Musso, 1973).
Một quá
trình sắc ký giấy chromatographique
thanh đẹp cho phép tách riêng của những sắc tố của nó pigments (Do¨pp & Musso 1974). Điều thú vị được ghi nhận rằng
những acides iboténique và stizolobique là thiết yếu của những yếu tố thêm vào
toàn bộ cấu trúc của những muscaaurines (Do¨pp và al. 1982, Depovere &
Moens 1984).
▪ Những chất muscaaurines là những bétalaïnes và cũng từ sự biến đổi của DOPA
(Fisher & Dreiding 1972).
▪ Muscapurpurin (màu tím) và muscarubin (nâu
đỏ), có những cấu trúc liên quan chặt chẻ với những muscaaurines, đã được phân lập ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria (Do¨pp & Musso
1973, Musso 1979).
▪ Dioléine 1,3 17, a-diester de glycérol và acide
oléique; đã được xem như hành động chánh thức thu hút loài ruồi của Nấm tán
giết ruồi Amanita muscaria
(Muto & Sugawara 1970) (Fig. 12).
▪ Những
nấm được biết đến cho sự tích tụ sinh học bioaccumulation
kim loại métaux khác nhau. Nấm tán
giết ruồi Amanita muscaria
có thể tập trung nguyên tố vanadium đến 200 ppm (30 lần hơn ở những sinh vật
sống ).
▪ Phân
lập, sự xác định cấu trúc và tổng hợp phức tạp của nguyên tố khoáng vanadium màu xanh dương nhạt, amavadine (Kneifel & Bayer, 1986), đã
được xác nhận bởi phương pháp tinh thể học cristallographie
(Berry và al., 1999).
Tương
tự, những nồng độ cao bất thường của nguyên tố sélénium (17,8 ppm; Watkinson 1964) và kim loại nặng métaux lourds đã được ghi nhận :
- cadmium Cd 13,9, coban Co 2,6, Chrom Cr 1,7, Chì Pb 33,3,
thủy ngân Mercure 61,3 và niken Ni 7,5 ppm d.w. (Michelot và al. 1998, Siobud và
al. 1999).
▪ Một lectine
(APL) đã được phân lập ở Amanita pantherina bởi sắc ký lỏng Chromatographie en phase liquide chất đạm protéine nhanh (FPLC).
Khối
lượng phân tử của nó được ước tính 43 kDa và bao gồm 2 đơn vị tương tự nhau (Zhuang
và al., 1996).
◦ Un b-
(1p6) phân nhánh (1p3) -β-D-glucane (AMASN) đã được phân lập ở Nấm tán giết
ruồi Amanita muscaria .
AM-ASN thể
hiện một hoạt động chống ung bướu khối u antitumorale
chống lại khối u ác tính sarcome 180 ở
chuột (Kiho và al. 1992).
▪ Chất phallolysine, một tán huyết tố hémolysine
điển hình tìm thấy ban đầu ở Amanita phalloides và có khả năng làm ngưng tập agglutiner những hồng huyết cầu, cũng
được phát hiện ở Nấm tán giết ruồi Amanita
muscaria (Seeger, Kraus & Wiedmann, 1973).
▪ Trong
những thành phần hoạt động khác được tìm thấy ở Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria, bao gồm :
- choline, acétylcholine, bétaïne, muscaridine, một muối
triméthylammonium bậc 4 của 6-amino-2,3-dihydroxyhexane, l'hercynine, (x)
-R-hydroxy-4-pyrrolidone, uracile, hypoxanthine, xanthine, adénosine, một dẫn
xuất carbolinique và bDn-butylglycopyranoside (Kołgl, Salemink & Schuller,
1960).
▪ Sự hiện diện có thể xảy ra ở Nấm
tán giết ruồi Amanita muscarina, của :
- amatoxines và
phallotoxines,
những độc tố toxines điển hình của Nấm Amanita
phalloïdes, lần đầu tiên không kể (Catalfomo và Tyler, 1961).
Tuy nhiên, những phương pháp phát
hiện rất nhạy cảm, những thử nghiệm miễn nhiễm phóng xạ radio-immunoessais,
những vết của amatoxines (Faulstich & CochetMeilhac, 1976) và những
phallotoxines cũng bị nghi ngờ (Larcan, 1979).
● Phương thức hành động của độc tố Toxines :
Hiệu quả «thuốc diệt côn trùng insecticide» Một số lớn những ấn phẩm
truyền thống tài liệu tham khảo với những đặc tính thuốc diệt côn trùng insecticides của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria .
Cuộc điều tra ban đầu đồng thời mô
tả một đặc tính không bình thường đối với acide iboténique, "agarin",
và những thí nghiệm định tính qualitatives
(Nhân tố Amanita B; Takemoto và Nakajima 1964a, Takemoto, Nakajima và Sakuma
1964, Takemoto, Yokobe và Nakajima 1964, Bowden, Drysdale và Mogey 1965) .
Hơn nữa, một tripeptide,
panthérine, có khả năng sinh học biologique
như vậy đã được tìm thấy trong nấm (Onda, Fukushima & Akagawa 1964).
Tuy nhiên, những thí nghiệm định
lượng quantitatives được thực hiện
bởi Catalfomo và Eugster (1970a), người đặc tên cho chất này là «pra¨muscimol»,
cho thấy rằng những loài côn trùng cho thấy rằng những loài côn trùng có 2 cánh
diptères là nhạy cảm yếu sensibles với tất cả hành động độc hại toxique bởi sự tiếp xúc hoặc bởi nuốt
phải.
Những kết quả này đã được xác định
bởi Matile (2000). Một sự sử dụng được coi là của những thành phần của Nấm tán
giết ruồi Amanita muscaria để
chống lại những loài ruồi nhà mouches
domestiques (Musca domestica) đã được thảo luận trong liên quan đến sự gia
tăng quan trọng của sức đề kháng (Petzsch, 1960).
Một
tính chất nổi tiến như vậy phải được hợp lý hóa do những tên của nấm ở những
quốc gia khác nhau và phát sinh từ truyền thống bằng miệng, của những câu
chuyện, những tranh vẽ và truyền thống dân gian folklore.
▪ Hành
động trên cơ thể sinh vật sống in vivo
của những độc tố toxines có liên quan
đến iboténique
Ngoài
những dữ liệu thí nghiệm ở những động vật, nó hiện có vài báo cáo thú y của sự
ngộ độc tai nạn intoxications
accidentelles ở mèo, với những triệu chứng xảy ra sớm từ 15 đến 30 phút sau
khi nuốt phải (Ridgway, 1978).
▪ Một
trạng thái phấn khích, kéo dài đến 4 giờ, tiếp theo sau một thời gian ngắn của
sự buồn ngủ somnolence. Con vật sau
đó trải qua một giấc ngủ sâu và sự phục hồi thường lấy lại trong vòng 24 giớ.
Xem xét
sự chẩn đoán, những sự thay đổi về sinh hóa biochimiques
phát triển 30 phút sau khi tiêm vào màng bụng của trích xuất nước của Nấm tán
giết ruồi Amanita muscaria ,
nấm Amanita pantherina và nấm Amanita rubrovolvata vào trong những chuột đực.
Đây là
những sự giãm hoạt tính của acétylcholine estérase, của glycogène gan hépatique, của chất đạm uré máu azote uréique du sang, cũng như sự gia tăng
của mức độ đường glucose máu sanguin;
những hoạt động của những transaminases
huyết thanh sériques là không bị ảnh
hưởng.
Những
giá trị trở lại bình thường trong vòng 6 giờ (Yamahura và al. 1983).
Dữ liệu
sau này chứng minh rằng sự ngộ độc intoxication
không nghiêm trọng và những cơ quan quan trọng như là gan foie và những thận reins là
không bị ảnh hưởng.
Những
chức năng dinh dưởng hầu như không bị ảnh hưởng bởi những độc tố toxines.
▪ Một
thử nghiệm sinh học biologique đã
được thực hiện để kiểm soát tính hiệu quả của những quá trình trích xuất và làm
tinh khiết, kéo dài thời gian ngủ ở những chuột sau khi dùng thuốc gây nghiện narcotique với một thời gian tác dụng
ngắn hạn (Mùller & Eugster, 1965).
▪ Những
nghiên cứu thâm cứu về sau cho thấy rằng liều lượng hoạt động của chất muscimol
quản lý bởi đường uống là từ 7,5 đến 10 mg và DL50 là 2,5 mg kgx1 ở chuột souris và 3,5 mg kgx1 ở chuột rat (von Theobald và al. 1968).
Sau khi
tiêm vào màng bụng intraperitoneale và
quản lý uống chất muscimol (4–8 mg kgx1) và acide iboténique (16 mg kgx1), đường
kính của đồng tử pupilles của chuột được
mỡ rộng.
▪ Rất
có thể, sau khi nuốt và, dịch dạ dày với độ pH thấp thủy phân acide iboténique thành
muscimol; sau đó, thành phần hoạt động đi đến não bộ cerveau hoặc được loại bỏ thông qua hệ thống tuần hoàn.
▪ Acide iboténique và chất muscimol đều được tìm thấy trong nước
tiểu urine con người sau 1 giờ tiêu
thụ, sự quan sát này đã được xác định bằng thực nghiệm trên những chuột (Ott,
Preston & Chilton, 1975).
▪ Cũng
như, một ưu tiên, một giai đoạn của sự khử acide carbon décarboxylation acide trong đường tiêu hóa dạ dày ruột gastro-intestinal sẽ tạo ra chất muscimol
sau đó thâm nhập vào trong hệ thống thần kinh trung ương système nerveux central bởi hệ thống tuần hoàn circulation systémique (Brehm, Hjeds & Krogsgaard-Larsen 1972).
Acide iboténique đã được chứng minh thành phần chánh của Nấm tán giết
ruồi Amanita muscaria và Amanita
Pantherina (Lund ,
1979). Không có hành động độc hại toxique trực tiếp nào trên những hệ
thống mục tiêu điển hình liên quan trong
những sự ngộ độc intoxications bởi
những nấm (gan foie, thận reins, chất chuyển hóa biến dưởng thiết
yếu métabolisme essentiel) đã được báo cáo (Michelot & Tebbett 1990, Michelot
& Toth 1991, Michelot 1992).
Tuy
nhiên, những việc tiêm lập đi lập lại của acide iboténique gây ra một sự thay đổi thoáng qua về độ nhạy cảm của
những thụ thể GABA (Taira, Uusi-Oukari & Korpi, 1993) và có thể gây ra :
- những tổn thương của não cơ bản trước cerveau antérieur basal,
- phá hủy tỹ lệ phần trăm thấp của tế bào cellules cholinergiques (Harrington
& Wenk, 1992). hậu quả trong cơ thể sinh vật sống in vivo sẽ là một kéo dài học tập và sự thiếu hụt trí nhớ đáng kể (Connor,
Langlais & Thal, 1991).
Trong
trường hợp những loài hữu nhũ trẻ jeunes
mammifères, chất muscimol cũng làm xáo trộn sự phát triển của hệ thống noradrénaline vùng dưới đồi hypothalamique (Taira & Smith 1993).
▪
Phương thức hành động sinh hóa biochimique của những độc tố toxines liên quan đến chất ibotène acide
iboténique, và đặc biệt là chất muscimol,
phải được xem như là chất trách nhiệm của hành động hướng tâm thần psychotrope của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria .
Những
hiệu quả của cả 2 chất là tương tự nhưng không giống nhau với hiệu quả của nấm
trong toàn bộ.
Acide iboténique và muscimol là một phần của một nhóm alcaloïdes riêng biệt, những acides
aminés kích thích.
Nhóm
nầy bao gồm : acide kaïnique, acide domoïque, acide tricholomique, acide
quisqualique, yunaïne và pétalonine; tất cả những acides aminés tự nhiên (Takemoto
1978, McGeer & McGeer 1981, 1983).
Acide iboténique và muscimol tương ứng là những dẫn xuất của acide glutamique và của acide
gamma-aminobutyrique (GABA) với hình dạng hạn chế.
Do đó,
nó hành động như những chất dẫn truyền thần kinh neurotransmetteurs liên quan
đến việc kiểm soát hoạt động của những tế bào thần kinh trong hệ thống
thấn kinh trung ương système nerveux
central của những loài hữu nhũ mammifères,
hành động trên những tế bào thần kinh gai neurones
spinaux (Curtis, 1993). Lodge & McLennan 1979).
Người
ta biết rằng acide iboténique hành động trên những thụ thể của acide glutamique
và chất muscimol trên những thụ thể GABA của loài ốc sên Helix aspersa (Walker,
Woodruff & Kerkut 1971).
Tuy
nhiên, không giống với acide glutamique và với GABA, acide iboténique và muscimol vượt
qua hàng rào máu não hémato-encéphalique
(Olpe & Koella 1978), rất có thể là do sự vận chuyển tích cực, làm giảm
những chất dẫn truyền thần kinh neurotransmetteurs
nội sinh endogènes và gây ra những
rối loạn não cérébraux.
▪ Acide glutamique là một chất dẫn truyền thần kinh neurotransmetteur chất kích thích chánh excitateur majeur trong hệ thống thần kinh trung ương système nerveux central của những loài
hũu nhủ mammifères và những thụ thể
của nó là có liên quan trong những rối loạn thần kinh neurologiques như là :
- chứng động kinh épilepsie,
- và bệnh Huntington .
Những thụ thể glutamate chất ức chế
(IGluR) tạo thành một nhóm những chất đạm protéines
của những kênh ioniques tương đương với thụ thể glycine và GABA.
Acide iboténique hành động trên
những IgluRs (Cleland 1996). Xem như năng lượng tối thiểu của mono-anion, acide
iboténique hiển thị một cấu trúc tương tự
cứng của L-glutamate.
Do đó, nó thể hiện hình dạng phù
hợp của những chất chủ vận agonistes của
glutamate xác nhận bởi lý thuyết của những quỷ đạo phân tử orbitales moléculaires (Borthwick & Steward, 1976).
Đặc tính trị liệu :
Amanita muscaria - medicinal
properties
Hiệu quả chữa bệnh của những nấm
được biết từ thời cổ đại Antiquité: nó
chữa trị :
- những bệnh của những
khớp xương articulations,
nó khó để chữa lành bệnh những vết
thương loét plaies, những bệnh ngoài
da maladies de la peau.
Thật vậy, những nghiên cứu khoa học
đã xác nhận trong webcam! Tìm thấy nhiều chất
có hiệu quả chữa trị rõ ràng.
Ví dụ ,
◦ một
sắc tố muskarufin pigment màu vàng-đỏ
có một hiệu quả :
- kháng sinh antibiotique,
- và chống khối u anti-tumeur,
◦ Chất muscarine
alcaloïde là :
- một thuốc giãm đau tự nhiên analgésique naturel
có khả
năng giãm đau analgésique được tìm
thấy trong webcam!
Những
chất
◦ chống
dị ứng antihistaminiques tự nhiên,
tức là
những chất loại bỏ những phản ứng dị ứng allergiques
Và quan
trọng nhất.
◦ những
chất ức chế bệnh sài teigne,
ngứa
truyền nhiễm gây ra những mảng tròn trên da do nhiễm nấm trên da infection fongique de la peau.
▪ (Fausse oronge Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria là rất độc très-vénéneuse, và nguy hiễm hơn ở chỗ
có mùi hôi làm cho buồn nôn odeur nauséabonde,
một hương vị chát cay âcre và xua
đuổi của những loài nấm có hại khác chỉ ra phẫm chất bại hoại có hại délétères của chúng, trong khi ở đây,
theo sự biểu hiện đẹp như tranh của Bertillon, những bảo vệ điên khùng nầy garde-fous đang
thiếu.
Cường
độ hành động bổ dưởng là lớn hơn khi nấm trưởng thành già hơn; những bộ phần
khác nhau của nấm, chân nấm và mủ nấm là hoạt động mạnh nhất; những phiến nấm
chỉ được xếp vào hàng thứ 3 (Reveil).
Những
khác biệt nầy, về tuổi và với những bộ phận sử dụng, cùng với tình huống của sự
chế biến v…v… , có thể giải thích những trường hợp an toàn được công bố bởi Bulliard,
Mérat và những người khác.
● Hành động trên những động vật .
Nấm fausse oronge Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria là độc đối với
những loài động vật hjữu nhũ mammifères, những loài chim oiseaux, những loài ếch grenouilles,
loài rắn serpents và những cá poissons ; những loài ốc limaces khởi đầu không nguy hiểm.
Người
ta bảo đảm rằng nước nấu sắc trắng sữa décoction
laiteuse giết chết những loài ruồi tue
les mouches.
Cho 2
gr. nạt thịt của Nấm tán giết ruồi Amanita
muscaria ở những loài chim sẻ moineaux
sẽ chết trong một khoảng thời gian khác nhau giữa 39 và 62 phút.
◦ Những
loài chó và mèo chết, theo Bulliard, nếu chúng đã ăn một số lượng nấm nhất
định, trong 6 đến 8 giờ.
Trong
hầu hết những trường hợp, người ta quan sát một sự kích ứng dữ dội irritation violente của những đường tiêu
hóa voies digestives và đồng thời của
những hiện tượng gây nghiện phénomènes de
narcotisme ; nhưng :
- đôi khi những triệu chứng đầu tiên chiếm ưu thế,
- đôi khi triệu chứng nầy là thứ hai,
- đôi khi đồng tử bị giản nở pupille est dilatée,
- đôi khi nó bị thu hẹp rétrécie.
1° Nước cất Eau distillée.
- 2 gr. được tiêm dưới da một con ếch đã giết chế nó trong
vòng 38 phút,
- 60 gr. đã xác định cái chết trong 98 phút;
- 40 gr. cho con thỏ
trong 15 phút.
Nó xác định gây ra những chóng mặt vertiges, những run rẩy tremblements, sau đó bại liệt paralysie nằm nhiều trên những dây thần
kinh nhạy cảm nerfs sensitifs hơn những
dây thần kinh vận động chỉ bị ảnh hưởng một cách rõ rệt.
- một sự suy giãm dần
xung mạch pouls,
- sự giãn nở đồng tử dilatation de la pupille,
- hôn mê coma,
- tử vong mort ;
khi khám nghiệm tử thi autopsie,
- một sự tắc nghẽn màng
ngoài của tim congestion du péricarde
và những màng não méninges,
- sự phát triển của
những mạch máu turgescence des vaisseaux
của não bộ encéphale,
- và thậm chí tràn dịch
màng não épanchement sanguinolent.
2° Trích xuất khô Extrait sec.
◦ 2 gr.
(số lượng tương ứng với 300 gr. của nấm tươi ), pha loãng trong nước và tiêm vào
trong vùng bẹn (vùng háng) inguinale của
một con chó 5 kilogr., tạo ra :
- một sự hô hấp thở hỗn hển respiration haletante,
- gia tăng những xung động mạch pulsations artérielles (126 à 146),
- chóng mặt vertiges
và đi loạng choạng titubation ;
◦ một
giờ 30 phút sau khi tiêm,
- co thắt đồng tử contraction
pupillaire,
- hôn mê coma ;
◦ 3 giờ
sau, xung sụt rơi xuống đến 80, tình trạng kéo dài đến giờ thứ 12 ; vào cuối
giờ thứ 18, tình trạng hôn mê giãm, và co vật phục hồi sau 48 giờ .
3° Nguyên chất nhựa Principe résineux.
- 12
gr. trích xuất alcoolique của Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria được quản lý
dùng cho một con chó chien, ngày thứ
2; chết sau khi trải qua những sự bài tiết ( phân) thường xuyên , không có
những rối loạn thần kinh rõ rệt; với khám nghiệm tử thi autopsie, người ta bắt gặp một đờm nhờn của ruột dữ dội nhất.
Vì vậy,
3 nguyên tắc : thứ nhất nó đóng vai trò như nhửng chất gây nghiện chát narcotico-âcres, thứ hai như chất an thần cho tim sédatif du cœur và gây nghiện narcotique,
thứ ba như chất kích thích irritant của
ống tiêu hóa tube digestif.
● Ở con người .
Ở con
người hơi thay đổi :
▪ Với
một liều nhỏ, nấm fausse oronge Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria có những hiệu quả làm say, được mô tả rất
rõ bởi Krachinonimkov ; ông báo cáo, và những chi tiết được xác nhận bởi Langsdorf,
rằng những cư dân của Kamtschatka cắt Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria thành những mãnh nhỏ mà họ sấy khô để bảo
quản nấm ; nó cũng được chế biến với nước ép của Cây sơn trâm vaccinium
uliginosum, hoặc bằng cách ngâm với những lá của loài Thượng thùy epilobium,
một thức uống mà họ dùng để thay thế rượu đỏ vin.
Khi họ
uống loại rượu nầy hoặc ăn nấm khô, nó biểu hiện ở họ một cơn say đặc biệt
trong đó những khoa trí tuệ facultés
intellectuelles bị tiêu diệt; nó xảy ra :
- những run rẩy tremblements,
- những giật soubresauts
trong những gân tendons,
- đôi khi những co giật convulsions.
Một
trong những người đồng tính gais, hát
hò và nhẩy nhót ; những người khác trái lại, là buồn bã tristes và chán nản abattus. Thông thường, những lực của bắp cơ dường như gia tăng đáng
kể; sau đó, những bệnh nhân ngã xuống, giấc ngủ bao lấy họ, làm êm dịu sự phấn
khích kỳ lạ nầy, và chẳng bao lâu nó trổi dậy trong trạng thái tự nhiên; thậm
chí một số sự buồn bả này kéo dài nầy bởi những sự miễn cưởng liên tiếp.
Nó được
quan sát rằng đôi khi xảy ra :
- những ói mữa vomissements,
nhưng
say xỉn ivresse không được giãm.
- Nước tiểu của những người cũng say giống như những đặc tính của nấm; vì vậy người ta thấy những người
túng thiếu tìm những người giàu, để mà thu hút sự say sưa nầy ivresse.
▪ Với
liều cao, Nấm tán giết ruồi Amanita
muscaria gây ra những sự ngộ độc mà sự thiếu thận trọng xảy ra
thường xuyên, đặc biệt ở vùng miền Nam.
Hiệu
quả có hại thường mong đợi một thời gian dài sau khi ăn nuốt và chỉ xảy ra từ
10 đến 15 phút sau bữa ăn.
Những
người trẻ được đánh đầu tiên. Người ta thường thấy sự tử vong cũng như một gia
đình chết liên tiếp.
- Hiệu
quả nầy, trước hết mang trên ống tiêu hóa tube
digestif ; buồn nôn nausées, đau bụng tiêu chảy dữ dội coliques atroces, bài tiết phân dồi dào déjections abondantes, nhầy nhụa glaireuses, chẳng bao lâu bị dính máu
nhiều sanguinolentes ; sau đó,
thứ nữa, sự hưng phấn excitation, say
xỉn ivresse, chóng mặt vertiges, run rẩy tremblements, loạng choạng titubation,
thở hổn hển respiration haletante, những
chuyển động tim không đều coeur, đôi
khi bị ngất syncope, giản nở hoặc co
rút đồng tử pupille, rối loạn thị
giác trouble de la vue, mất trí thông
minh perte de l'intelligence, mê sảng
đồng tính délire gai hoặc khùng điên maniaque, xanh xao pâleur, chảy mồ hôi lạnh sueur
froide, xung mạch pouls chậm đáng kể, hôn mê coma và từ vong mort. Những xoang sinus và
những động mạch artères cơ bản bị xáo
trộn bởi máu sang.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Trong Italie, sau khi đun sôi và đổ bỏ nước dư thừa, nấm được giữ lại
trong nước muối trước khi tiêu thụ (Festi, 1985).
▪ Trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, lớp biểu bì màu đỏ được gở bỏ và phần còn lại được
sấy khô và sau đó đuợc hút thuốc (Ott 1978).
Những quá trình sau nầy sẽ loại bỏ
hoặc phá hủy phần lớn của những chất hoạt động hòa tan trong nước.
Chất muscimol và acide iboténique
có lẽ là nguyên chất hoạt động sinh học biologiquement
actifs của những loài quan tâm, nhưng
những thành phần hoạt động khác bị nghi ngờ.
Bất kỳ những nỗ lực khử nước dẫn
đến việc một khử carbon décarboxilation
tạo ra một định lượng của chất muscimol, do đó gợi ý cho một bữa ăn của những
nấm nấu chín, hoặc thậm chí sau một tiêu hóa dạ dầy digestion gastrique, sẽ chỉ chứa chất sau nầy và sẽ là yếu tố trách
nhiệm của những triệu chứng chánh.
▪ Hút ẩm và nấu ăn làm giãm mức độ
độc tính của năng lượng độc hại toxique
của Nấm tán amanite.
Nấu ăn kéo dài trong nước muối hoặc
giấm làm cho nấm độc champignons vénéneux
trở nên vô hại inoffensifs nhưng cũng
là một loại thức ăn không có mùi vị insipides
và khó tiêu indigestes.
Hiệu quả xấu và rủi ro :
● Hội
chứng ngộ độc :
Đặc tính của sự ngộ độc và triệu
chứng hội chứng ngộ độc do Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria và Amanita pantherina đã được gọi là «myco-atropinique», những triệu chứng
tương tự như gây ra bởi những cây có một số chất có tác dụng dược lý như
atropine atropiniques như là Datura
stramonium, Atropa belladone và Hyosciamus niger . những những alcaloïdes nhiệt
đới không hiện diện.
Thời
gian triệu chứng chrono-symptomatologie
là thay đổi giữa những đối tượng, tùy thuộc vào chức năng của những nghi thức (Waser
1967, Festi 1985) và những ngộ độc thí nghiệm intoxications expérimentales và tình cờ accidentelles.
Trong
những nghi thức, người bị ngộ độc (ví dụ pháp sư ) đang tìm một trạng thái tình
thần đặc biệt trong đó tính tự kỹ ám thị autosuggestion
là quan trọng. Một «sự mê sảng délire»
không hoàn toàn được tạo ra, nhưng những những chất hóa học đã cải thiện trí
tuệ (Levi-Strauss, 1970).
Bối
cảnh văn hóa xã hội và môi trường kết hợp với trạng thái tâm lý psychologique và sinh lý physiologique của người tham gia là
thích hợp (Rosenbohm, 1995). Hội chứng Pantherina-muscaria giống như chất atropine và trong số lượng và mức độ
nghiêm trọng gravité của những trường
hợp ngộ độc empoisonnement gây ra tử
vong là rất hiếm.
Trong
hầu hết những trường hợp, sự phục hồi hoàn tất sau 24 giờ không có di chứng rõ rệt (Bosman và al. 1965,
Gerault và Girre 1977, Hatfield 1979, Lampe 1979, Bornet 1980, Gelfand và Harris
1982, Pegler và Watling 1982, Iancovitz 1983, Hanrahan & Gordon 1984,
Benjamin 1992, Denoyer 1992).
▪ Trong
hầu hết những trường hợp, một chén nấm xào đủ để những hiệu quả hướng tâm thần psychotropes. Những triệu chứng bắt đầu
từ 30 min đến 2 giờ sau khi nuốt uống.
Trạng
thái co giật confusion, chóng mặt vertiges và mệt mõi fatigue, gây mê thị giác anesthésie
visuelle và thính giác auditive (quá
mẫn cảm hypersensibilité), biến dạng
không gian distorsion de l'espace và
không nhận thức được thời gian conscience
du temps; của những thể hiện sự cũng cố bởi sự tiêu thụ một số thuốc tâm
lý-an thần psycho-sédatifs.
Những
thái độ hung hăng đã không được báo cáo.
▪ Khô
miệng sécheresse de la bouche và giãn
đồng tử mydriase (giãn nở đồng tử dilatation des pupilles) đã được đề cập đến.
Những
ảo giác hallucinations, nhận thức màu
sắc sống động perception des couleurs
vives và một cảm giác về thời gian bất động temps immobile đã được tranh cải.
▪ Một
thời gian buồn ngủ sau 2 giờ sau đó, với những giấc mơ sống động. Một giấc ngủ
sâu sommeil profond chấm dứt ngộ độc empoisonnement thường kéo dài khoảng 8
giờ (Benjamin 1992, Davis và Williams 1999).
▪ Những
rối loạn thiêu hóa dạ dày ruột gastro-intestinaux
tiếp theo sau với nôn mữa vomissements không được ghi nhận và không phải là đặc
điểm của hội chứng syndrome (Festi
& Bianchi, 1992). Không có thiệt hại nào cho những cơ quan đã được ghi
nhận, mặc dù những thành phần hoạt động có thể gây ra những tổn thương não bộ cérébrales trong cơ thể sinh vật sống in vivo.
▪ Một sự tiêu thụ thường xuyên nấm
có thể sẽ có hại, mặc dù hầu hết của những trường hợp ngộ độc ở người intoxication humaine không có bất kỳ báo
cáo nào.
Những tổn thương não cérébrales ở những loài gặm nhấm được
chữa trị với acide iboténique và muscimol có thể xảy ra (Lescaudron, Bitran
& Stein, 1992).
● Chữa trị
.
Sự chữa trị thích hợp chủ yếu là triệu
chứng symptomatique.
▪ Trước hết, là loại bỏ những chất
độc hại toxiques của đường tiêu hóa
dạ dầy ruột gastro-intestinal bằng cách :
- làm ói mữa vomissant (ví
dụ như dùng uống sirop d'ipéca; Benjamin 1992),
- rữa dạ dày lavant
l'estomac,
- hoặc bằng cách dùng than hoạt tính charbon activé và thanh lọc hoàn toàn purgeant,
tốt
nhất là liên lạc với đơn vị cấp cứu chăm sóc khẩn cấp cấp cứu (M. Denoyer,
pers. comm.).
Những
hành động của những nguyên chất hoạt động, acide
iboténique và muscimol, phải được
so sánh với hoạt chất atropine; do
đó, sự sử dụng của thuốc sau là chống chỉ định mạnh.
Chất physostigmine
(esérine), là một chất ức chế của phân hóa tố cholinestérase, đã được đề nghị
bởi vì nó trung hòa những hiệu quả của scự ngộ độc intoxication bởi chất atropine và những thuốc chống động kinh antimuscariniques liên quan.
▪ Liều
lượng tiêm vào trong tĩnh mạch intraveineuse
cho người trưởng thành và những thanh thiếu niên là từ 1 đến 2 mg lập lại khi
cần thiết (Taylor 1992), thuốc cũng được sử dụng với sự thành công trong những
trường hợp cho thú y vétérinaires
(Ridgway 1978).
▪ Việc
sử dụng thuốc an thần sédatifs như là
thuốc diazépam hoặc thuốc clonazépam, bởi đường uống hoặc tiêm vào trong tĩnh
mạch intraveineuse, trong trường hợp
co giật convulsions, cũng như thuốc phénobarbital
đã được đề xuất (Lambert và Larcan 1989, Garnier, Azoyan và Baud 1990, Benjamin
1992, Denoyer 1992).
Tuy
nhiên, người ta nghi ngờ rằng chất diazépam
tăng cường hành động của chất muscimol
(Hanrahan & Gordon 1984, Benjamin 1992).
Trái
với một số tuyên bố, nấu ăn không làm giãm độc tính toxicité một cách đáng chú ý, điều nầy chứng minh rằng những thành
phần hoạt động không nhạy cảm với nhiệt độ.
▪ Những
tòa án Ý italiens cũng đã cấm sử dụng thuốc psilocybine, psilocine và Nấm tán
giết ruồi Amanita muscaria («Stampa alternativa»).
Tuy
nhiên, trong Châu Âu Europe, sự quan
tâm đến thuốc nầy ít quan trọng hơn trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, nơi đây luật pháp cấm sử dụng Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria, ngay cả ở Châu Âu vẫn đang gia tăng.
▪ Trong
một số nước nhất định, việc sở hữu nấm gây ảo giác hallucinogènes không phải là bất hợp pháp, trái lại với những chất
hóa học và dẫn xuất của chúng được làm tinh khiết.
Triệu chứng.
▪ Sự
ngộ độc xảy ra theo 2 giai đoạn :
◦ Trong
giai đoạn đầu, người ta quan sát những rối loạn của hành vi tâm tánh, của sự
hưng phấn euphorie hoặc sự tức giận colère, sự kích động agitation, sự mất phương hướng désorientation, mê sảng délire, những ảo giác hallucinations.
◦ Thời
gian ngủ sâu : ở trạng thái đầu tiên của sự hưng phấn excitation sau một thời gian thất thần torpeur thậm chí hôn mê coma trong những trường hợp nghiêm trọng. Nạn
nhân đôi khi cũng có những triệu chứng tiêu hóa tối thiểu digestifs mineurs như là buồn nôn nausées, ói mữa vomissements
và tiêu chảy diarrhée.
Chjữa
lành bệnh trong từ 12 đến 24 giờ.
Ứng dụng :
▪ Sử dụng phổ biến.
Nấm tán giết ruồi Amanita muscaria đặc biệt được sử dụng sớm trong Châu Âu như thuốc trừ sâu insecticide được pha loãng trong sữa, do
đó nó có tên địa phương «giết ruồi».
Chất muscarine trích xuất từ nấm nầy cho
phép đặc tính hóa một thụ thể tiếp hợp thần kinh nhạy cảm synaptique sensible với acétylcholine, được gọi là thụ thể muscarinique.
Những linh
mục Gaulois druides và những nhà phù thủy sorciers
cũng đã sử dụng với những mục đích pháp sự như peyotl ở Mexique (cf. Castañeda).
Tiếp theo sau một sự bào chế đặc biệt, nó được cho là đưa những người thực hành
vào những thực tại khác của nhận thức và can thiệp vào thế giới linh hồn, do
đặc tính gây ảo giác hallucinogène
của nó.
Đặc
tính hướng tâm thần psychotrope được
quy cho chất muscimole cũng như chất
muscazone ( có nguồn gốc của acide iboténique khi nấm được sấy khô).
Nguyên
chất nầy được loại bỏ bởi nước tiểu urines
có thể được tái hấp thu như một thức uống gây say.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire