Caesar's mushroom
Oronge
Nấm trứng gà
Amanita caesarea
(Scop.) Pers.
Amanitaceae
Đại cương :
▪ Từ
nguyên học Étymologie
Trong Italie, Nấm Trứng gà Amanita
caesarea là một Nấm ăn được rất phổ biến từ
hơn 2000 năm.
Những Hoàng Đế đầu tiên của La Mã rất thích những món ăn nầy,
nó đã tạo nên cảm hứng lấy tên Hoàng đế César để đặc tên tiếng latin Caesarea cho Nấm, người làm nên lịch sử
gặp phải khó khăn, nên dùng từ nói chung César
cho tất cả những vị ưa thích món ngon nầy.
▪ Sự phân phối.
Khá phổ
biến trong miền nam Châu Âu, Nấm Trứng gà Amanita caesarea không được biết đến
trong Anh Quốc Grande-Bretagne cũng
không ở Irlande, nhưng với sự thay đổi khí hậu, nó có thể sớm tồn tại về phía
bắc.
Người
ta tìm thấy những nấm rất giống trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, và thường được ghi nhận nhất là Nấm Amanita jacksonii. Khi còn non và tươi,
màu sắc của mũ nấm Amanita jacksonii có màu cam đậm hơn (đôi khi gần như màu đỏ)
Nấm Trứng gà Amanita caesarea và những bào tử của chúng nhỏ hơn nhiều.
▪ Môi trường sống:
Là một
loài chịu nhiệt Thermophile, Oronge
Nấm Trứng gà Amanita caesarea mọc bắt đầu từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 11
dưới những loài cây có lá rụng (bao gồm nhữa loài sồi xanh chênes verts, chênes-lièges, cây dẻ châtaigniers ) của những vùng địa trung hải méditerranéennes.
Do sự
hâm nóng lên của khí hậu địa cầu, người ta tìm thấy những loài Nấm Trứng gà oronges
nhiều ở miền Bắc, bao gồm trong Île-de-France. Nó không hiện diện ở Bỉ Belgique ngoại trừ vài trường hợp hiếm
được ghi nhận trong Gaume .
Đây là một loài của vùng Địa trung
hải méditerranéenne, gặp thường xuyên
ở miềm nam Châu Âu và ít phổ biến trong những nước Châu Âu khác. Nó cũng được
thu thấp trong Bắc Phi Afrique du Nord,
trong Châu Á Asie và ở Mexique, cũng
như được ghi nhận duy nhất cho những
Châu Mỹ Amériques.
Nấm nầy cũng tương đối phổ biến, từ
lâu trong Périgord (và có lẽ ở tất cả những vùng Tây Nam Sud-Ouest) nơi đây nó được thu hoạch vào
tháng 8.
Cũng như, ở Mexique, môi trường
sống tự nhiên của nó được được cấu thành ở những khu rừng sồi chênes, rừng thông pins hoặc rừng sapin ở những độ cao lên đến từ 2 200 đến 3 000 m so
với mực nước biển, nơi đây nó ưa thích ở những đồng bằng và có thể tìm thấy
trên những sườn dốc 20 độ.
Trong những khí hậu nóng hơn, nấm
nầy mang những thân quả trong những khu rừng sồi cao hơn, đôi khi trộn lẫn với
những Cây lá kim conifères.
Nấm Trứng gà Amanita caesarea được
liệt kê trong danh sách đỏ của Ukraine và
được bào vệ bởi luật pháp ở Croatie và
trong Slovénie.
• Những
phạm vi từ Bắc Phi Afrique du Nord đến
miền nam Châu Âu sud de l’Europe, chủ
yếu trong Ý Italie.
Loại
nấm nầy không tồn tại (theo như người ta được biết ở thời điểm hiện nay ) ở Hoa K ỳ États-Unis, nhưng nó có
những loài tương tự ở Hoa K ỳ
.
• Nấm
Trứng gà Amanita caesarea là thuộc loại mycorhizienne,
có nghĩa là nó hình thành một mối quan hệ cộng sinh symbiotique có lợi ích với những rễ của một số nhất định của những
Cây. Người ta tìm thấy chúng đậu quả fructifier
dưới những Cây thông pins và những
Cây sồi chênes.
• Nấm
nầy mọc trực tiếp trên đất, không phải trên những Cây hoặc trên những gỗ chết.
▪ Điểm mạnh của sản phẩm.
Nấm
Trứng gà Amanita caesarea là một loại
nấm ăn được rất phổ biến đến và được sử dụng như một thực phẩm từ hơn 2000 năm.
Nấm
Trứng gà Amanita caesarea là một nấm ectomycorhizien
(là một nấm trong đó những sợi nấm hyphes
xâm nhập vào bên trong rễ rất ít và phần lớn còn lại ở bên ngoài những tế bào.
Khuẩn
ty có dạng như một lớp áo nấm phủ bên ngoài rễ và những sợi nấm phù hợp với vỏ
ngoài tạo ra như một mạng lưới, được thiết lập cho mối quan hệ cộng sinh symbiotiques tự nhiên với những Cây
(Quercus, Castanea, Pinus) và những tiểu mộc bụi (Arbutus, Ciste).
Những
thân quả fructifications của những
nấm Nấm Trứng gà Amanita caesarea có một dạng
agaricoïde, có nghĩa là một
loại nấm với một cánh nhỏ với một mủ nấm ở trung tâm và một thân, và luôn hiện
diện một vòng và một màng riêng biệt . Nhưng đặc điểm rõ ràng nhất là mủ nấm có
màu cam tươi sáng.
Những
thân quả fructifications thường xuất
hiện vào tháng 10 đến tháng 11 trong những vùng địa trung hải trong những đất
silic siliceux và đá vôi calcaires.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật :
▪ Mũ nấm :
◦ Lồi trở nên phẳng theo tuổi, màu
cam đến đỏ - cam bóng sáng. Những mũ nấm khá nặng, dài từ 8 đến 15-20 cm đường
kính, hình trứng khi còn non sau đó dạng bán cầu và cuối cùng mủ nấm lồi ra,
không bao giờ bị xẹp hay bị lõm, và có những đường rạch trên những cạnh.
Mặc dù bề mặt khá mịn láng, bìa
phiến có sọc nhẹ. Được bao bọc bởi một màng màu trắng và dầy, Lớp biểu bì của
nó trơn mịn, sáng bóng và như satin, có một màu đỏ cam nhiều hay ít sậm màu, Nó
lột ra một cách dễ dàng.
Lưu ý rằng, Nấm không giống như
những nấm của giống amanita khác, bề mặt của mũ nấm không có những mụt và những
mảng vảy.
◦ Những phiến sinh bào tử của nấm
không đều nhau, một màu vàng nhạt, cũng như chân nấm cung cấp một vòng có cùng
màu, và lồi ra bên dưới.
Nấm nầy mang những «phiến rời» màu
vàng nhạt, cái nầy có nghĩa là những phiến nằm dưới mủ nấm không được gắn vào
thân.
Cho dù phiến rời hoặc gắn vào thường
là yếu tố quan trọng để xác định một loài nấm, vì vậy hảy quan sát thật kỹ.
◦ Lớp biểu bì có màu đỏ cam tươi,
sáng bóng, thường tách ra dễ dàng, để lộ một lớp màng mỏng màu vàng trên một
phần nạt thịt trắng, thơm, ngọt dịu nhẹ dễ chịu, thường được phủ bởi lớp mảnh
vụn của volve, màu trắng.
◦ Nạt thịt trắng, vàng dưới lớp
biểu bì, hương vị dễ chịu.
◦ Bìa mũ nấm, đều và có đường rạch
trên 1 cm, màu vàng kim.
▪ Thân nấm,, hình trụ thường đo được giữa 8 và 15 cm cao và từ 2 đến
4 cm rộng, cứng, màu vàng nhạt đến màu
cam ở lớp bên ngoài, nạt thịt màu vàng nhạt đến trắng bên trong nấm.
◦ Thường có vòng anneau, vòng nấm là một màng, đồng màu
với chân nấm, được ở bên trên dưới mủ nấm. Mùi hương dể chịu, đó là chiếc váy
của nạt nằm bên dưới mũ nấm gắn vào thân. Vòng nầy, còn lại một phần của màng,
một lớp mô tế bào bao phủ phiến mang để bảo vệ chúng trong quá trình nấm phát
triển.
Bên dưới thân thường thấy một cấu
trúc của một chén gọi là volva,
volva thường nằm bên dưới đất, vì vậy hảy cẫn thận khi đào chung quanh nấm để
chắc chắn rằng nó có hay không có ở đó.
▪ Màng Volve
Loài nấm đẹp nầy với bào tử trắng,
khi còn non nhỏ, được bao bọc hoàn toàn trong một bao trắng có hình dạng như
một quả trứng : sau đó bao nầy ( bao nầy người ta đặt tên là màng bao volve) mở ra không đều do nấm
tăng trưởng, để cho nấm lộ đi ra sau đó là một hình cầu sphérique. Màng volve
còn lại ở chân dưới dạng một chóp rộng trắng
bao chung quanh, một lớp mô khác bao toàn bộ nấm trong một quả trứng nhỏ
khi nấm còn non, trong khi, trong Nấm trứng giả Fausse-Oronge, nó chỉ còn lại
những mảnh vỡ dính vào chân nấm.
▪ Khuẩn ty mycélium, bộ phận thực vật vô hình liên kết với những rễ
của những cây chung quanh.
▪ Bào từ trắng đến màu vàng sáng.
Bộ phận sử dụng :
Toàn nấm.
Thành phần hóa học và dược chất :
Nấm Trứng gà Amanita caesarea, thân
quả non.
▪ Một nghiên cứu phân lập từ những
thân quả fructifications của Nấm
Trứng gà Amanita caesarea cho thấy rằng sự phát triển theo chiều ngang (xuyên
tâm) (gia tăng đường kính của trục axone)
của loài nầy có thể ở :
- pH 6-7,
- và sự tăng trưởng tối
ưu là ở nhiệt độ từ 24-28 ° C (75-82 ° F), tùy thuộc vào sự phân lập.
▪ Một nghiên cứu thành phần của
những acides hữu cơ đã phát hiện một hàm lượng tương đối cao, khoảng 6 g / kg, ở
Nấm Trứng gà Amanita caesarea.
- acide malique,
- acide ascorbique,
- acide citrique,
- acide cétoglutarique,
- acide fumarique,
- acide shikimique,
- và những vết của acide
succinique đả được phát hiện.
Những acides malique và ascorbique là
những thành phần phong phú nhất.
- Thành phần ergostérol cũng đã được phân lập ở Nấm
Trứng gà Amanita caesarea.
▪ Cấu trúc
và hoạt động chống oxy hóa antioxydante
của một polysaccharide mới có nguồn gốc từ Nấm Trứng gà Amanita caesarea
Một hétéropolysaccharide đã được
phân lập của những thân quả fructifications
của Nấm Trứng gà Amanita caesarea bằng cách sử dụng một cột diéthylaminoéthylcellulose,
một cột gel Sephacryl S ‑ 300 và một cột Sephadex G ‑ 200.
▪ Polysaccharide Nấm Trứng gà Amanita caesarea có thành phần chánh :
- α-D-glucose,
- và α-D-lyxose
trong một tỹ lệ 2: 1 và có trọng lượng phân tử 19 329 Da.
Những
đặc điểm cấu trúc của polysaccharide Nấm Trứng gà Amanita caesarea đã được
nghiên cứu bởi một sự kết hợp của một sự thủy phân toàn bộ hydrolyse totale,
- phân
tích méthyl hóa méthylation,
- sắc ký khí quang phổ khối
lượng gas chromatography-mass spectrometry,
- và quang phổ hồng ngoại infrared spectra,
- và quang phổ cộng hưởng từ trường
hạt nhân nuclear magnetic resonance
spectroscopy.
Những kết quả cho thấy rằng :
- Polysaccharide Nấm Trứng gà Amanita caesarea (gọi là AC-1) có một sườn công thức của :
◦ α-D-glucose liên kết trong 1,4,
◦ và α-D-glucose liên kết trong 1,3,6, với
những nhánh của một D-Lyxose dư lượng.
▪ Hoạt
động chống oxy hóa antioxydante của AC-1 đã được đánh giá bởi 2 phương pháp
sinh hóa biochimiques,
- hoạt
động truy tìm gốc tự do piégeage des
radicaux 2,2-azino-bis diammonium (ABTS +),
- và
hoạt động truy tìm gốc tự do piégeage des
radicaux 1,1-diphényl-2-picrylhydrazyle (DPPH).
▪ Sự
sản xuất không được kiểm soát của gốc tự do là phức tạp trong những bệnh khác
nhau, bao gồm :
- bệnh ung thư cancer,
- bệnh xơ vữa động mạch athérosclérose,
- và những quá trình thoái hóa của lão hóa vieillissement dégénératif.
Những
kết quả chỉ ra rằng polysaccharide Nấm Trứng gà Amanita caesarea thể hiện :
- một hoạt động mạnh chống oxy hóa antioxydante.
do đó
nó có thể tạo thành một sản phẩm chống oxy hóa tự nhiên antioxydant naturel lợi ích.
Đặc tính trị liệu :
Không biềt, cần bổ sung.
Kinh nghiệm dân gian :
Oronge được tìm kiếm rất nhiều ở
những người La Mã Romains. Nhưng đặc biệt là Néron, vị Hoàng đế La Mã , đã làm cho nấm này trở nên
nổi tiếng; nó được gọi là mets des dieux. Cuối cùng người ta gợi nhớ lại
rằng Hoàng đế Claude đã bị đầu độc bởi một món ăn có Nấm Trứng gà Oronges trong
đó chất độc đã bị thâm nhập.
Nghiên cứu :
Không biết, cần bổ sung.
Hiệu quả xấu và rủi ro :
Một điều tra trên hàm lượng thành
phần kim loại nặng métaux lourds
trong những mẫu vật của nấm đã phát hiện :
▪ Những nồng độ của cadmium Ca trong Nấm Trứng gà Amanita
caesarea 4 lần cao hơn so với nồng độ cho phép trong những nấm trồng theo những
tiêu chuẩn của UE.
▪ Số lượng của chì plomb Pb trong Nấm Trứng gà Amanita
caesarea cũng đã vượt qua nhhững mức độ cho phép.
▪ Nghiên cứu đã kết luận rằng sự
tích tụ của kim loại nặng métaux lourds
có thể là một đặc tính đặc biệt của những nấm, và sự tiêu thụ mãn tính của một
số nhất định loại nấm có thể là có hại nocive.
Thực phẩm và biến chế :
Oronge Nấm trứng gà, phục vụ trên
bàn ăn cho những Hoàng đế Césars, là một loài nấm tuyệt với (thật vậy chỉ duy
nhất loài nấm của giống Amanita mà
người ta có thể ăn sống !) Nấm thích nhiệt và ánh nắng mặt trời và do đó chủ
yếu ở miền nam, ngay cả người ta quan sát thấy trong miền tây nước Pháp.
▪ Ẫm thực
.
Nấm Trứng gà Amanita caesarea là
tốt để ăn, mặc dù nó không được đề nghị bởi vì nó có thể bị nhầm lẫn với những
dạng màu đỏ và cam của nấm diệt ruồi agaric
mouche độc hại toxique Amanita
muscaria.
Nấm
Trứng gà Amanita caesarea là một nấm được đánh giá cao trong Châu Âu Europe. Theo truyền thống, nó được thu
hoạch và tiêu thụ trong Ý Italie, nơi
đây nó được biết dưới tên ovolo orovolo
buono hoặc "fungo reale".
Theo
truyền thống, nó được dùng như thực phẩm ở Mexique. Nó được tiêu thụ rang nướng
với một ít Kinh giới Mễ Dysphania ambrosioides (dttd). Những thị trường xuất
khẩu quốc tế đã phát triển trong những năm 90.
Nấm
nầy, một trong những nấm tinh tế nhất mà người ta có thể ăn, được phổ biến
trong Midi, nhưng khá hiếm trong trung tâm và những vùng xung quanh Paris. Người
ta tìm thấy nó vào cuối mùa hè trong những khu rừng khô và nó được phơi bày tốt
ngoài thiên nhiên.
Lợi ích ẫm thực.
Nấm
Trứng gà Amanita caesarea có một ẩm thực nổi tiếng không ai bằng, được tăng
cường bởi sự hiếm có và vẽ đẹp của nó.
Những
chế phẫm đơn giản phát ra một hương vị của nó :
- nấm sống thô với một ít dầu với chanh, ở lửa mạnh với một
nhúm muối biển.
Một thu
hoạch tốt đẹp cho phép một số thử nghiệm …Và những công thức nấu ăn không
thiếu.
Oronge
Nấm Trứng gà Amanita caesarea có thể tiêu thụ sống, nó không giống như phần lớn những loại nấm
khác, như nấm morille chỉ ăn được sau khi nấu chín.
▪ Món Nấm đơn giản César
Thành
phần :
• Nấm
Trứng gà Amanita caesarea (hoặc jacksonii nếu ở Mỹ États-Unis), như bạn muốn ăn
(nhưng không quá nhiều !)
- dầu olive
- nước ép chanh Jus
de citron
- muối sel
- tiêu poivre
Những
bước thực hiện :
• Lau
nấm nhẹ nhàng những nấm với một khăn ẫm. Bảo đảm tất cả bụi bẫn được loại bỏ.
Cắt làm 2 theo chiều dài.
• Thêm
một ít muối. Đừng quá nhiều, ướp hơi mặn cho mỗi miếng nấm. Chờ vài phút để
muối thấm vào.
• Nêm
nới nước ép chanh, dầu olive và một nhúm tiêu poivre.
• Ăn và
thưởng thức !
Không
liệt kê số lượng gia vị bởi vì thật ra nó không cần nhiều.
Đừng
quên rằng để giữ hương vị của nấm, lượng gia vị tình theo giọt, chụm và nhúm…..
Rất đơn
giản món Nấm nầy có thể thêm vào bất kỳ món salades nào để đem đến một sống
động thật sự cho bữa ăn.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire