Bolet amer-Bitter
bolete
Nấm tràm
Tylopilus felleus
(Bull.) P. Karst.
Boletaceae
Đại cương :
● Đồng
nghĩa :
▪ Boletus alutarius Fr.
▪ Boletus alutarius Rostk.
▪ Boletus felleus Bull.
▪ Tylopilus alutarius (Fr.) Rea
▪ Tylopilus felleus var. alutarius
(Fr.) P. Karst.
▪ Tylopilus felleus (Bull.) P.
Karst., Revue mycol.
▪ Tylopilus felleus var. minor
(Coker & Beers) Pilát & Dermek
▪ Tylopilus felleus var. uliginosus
A.H. Sm. & Thiers
● Tên
thông thường :
Nấm Tràm Tylopilus felleus tên thường dùng của nó
là Bolet amer, Bolet de fiel, Chicotin hoặc Faux cèpe hoặc tylopilus
amer là một loài của nấm basidiomycètes thuộc họ Boletaceae. Nó là
một loài được xem như là không ăn được do hương vị rất đắng của nó mà người
tiêu dùng không chịu được. Ờ Á đông, nấm này rất được ưa chuộng cũng do vị đắng
thơm ngon của nó.
Nấm Tràm Tylopilus felleus tên của nó có nguồn gốc từ tên của
giống Hy Lạp Tylos "bump" và
pilos "hat", và tên loài đặc biệt của nó từ tiếng latin fel có nghĩa như là "mật bile", ám chỉ vị đắng của nó, tương
tự như mật bile.
Đây là một loài cộng sinh giữa nấm
và cây có mạch ( cả hai cùng có lợi ) mycorhizienne,
nó mọc trong những rừng cây lá rụng và lá kim conifères, thường đậu quả dưới những cây giẽ hêtres và những cây sồi chênes
hoặc trong những môi trường ngập nước
của rừng tràm.
Những thân quả có những mủ lồi đến
phẳng, hơi có màu nâu hoặc màu tím nhạt và thường đo được đến 5 cm đường kính.
Bề mặt của những lỗ sinh bào tử ban
đầu có màu trắng trước khi chuyển sang màu hồng theo tuổi. Như hầu hết những nấm
thông bolets, nó không có vòng nhẫn anneau bên dưới mủ nấm và nó có thể được phân biệt với nấm cèpe
Boletus edulis và những loài khác tương tự bởi những lỗ sinh bào tử pores có màu hồng khác thường và bởi do có
một mạng lưới màu nâu đậm nổi bật trên chân nấm của nó.
● Hệ sinh
thái, sự phân phối
Những gỗ có nhựa cũng có thể tiếp
nhận nó như là : thông pin, cây bách épicéa commun.
Khi trưởng thành, những lỗ sinh bào
tử pores thường có màu xanh dương nâu
nhạt, trong khi bề mặt những lỗ sinh bào tử pores
phình lên bên dưới.
Như tất cả những loài của giống Tylopilus,
Nấm Tràm
Tylopilus felleus là một loài nấm
cộng sinh với những thực vật có mạch mycorhizien
khác. Người ta tìm thấy trong những khu rừng lá rụng và những rừng tùng bách conifères, thường mọc dưới những cây giẽ
hêtres và những cây sồi chênes hoặc trong những rừng tràm, trong
những đất acides có thoát nước tốt, có thể lá đất cát sablonneux, đất sỏi graveleux
hoặc than bùn tourbeux.
Nếu được gặp trên những đất vôi calcaire, trong những vùng đất úng nước humides gorgées d'eau và nơi đây có nhiều lá mục chết.
Những thân quả nấm có thể mọc đơn
lẻ hoặc họp thành nhóm nhỏ, và đôi khi thành cụm nhỏ với 2 hoặc 3 nấm dính liền
nhau ở gốc thân nấm.
Những thân quả cũng có thể mọc
trong những hốc của những cây già, trên những thân cây lá kim conifères hoặc trên gỗ mục bị chôn vùi
dưới đất.
▪ Những thân quả xuất hiện vào mùa
hè và mùa thu, từ tháng 6 đến tháng 10 hoặc tháng 11, ở nhiều vùng ôn đới phía
bắc.
Số lượng lớn nấm có thể xuất hiện
trong một số năm nhất định và không có trong những năm khác, thường tỹ lệ với
số lượng nước mưa.
Loại variété uliginosus, được biết ở Michigan, mọc từ những địa y lichens và những rêu mousses dưới những Cây thông pins.
Trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, nó được biết từ miền đông Canada est du Canada, qua miền nam đến Floride và
đến miền tây Minnesota ở Hoa K ỳ
États-Unis, cũng như ở Mexique và trung M ỹ Amérique centrale.
Sự phân phối ở Châu Âu của nó rất
lan rộng, nó tương đối được phổ biến trong nhiều vùng, nhưng rất hiếm hầu như
vắng mặt trong những vùng khác.
Trong Châu Á, nó được ghi nhận từ
những vùng lân cận Dashkin, ở quận Astore, trong miền bắc Pakistan, và cũng tìm
thấy ở tận phía tây nước Tàu, nơi đây nó được ghi nhận trong những tỉnh Hebei,
Jiangsu, Fujian, Guangdong và Sichuan và Đại Hàn.
Sự phân phối của chúng bao gồm ở
Đông Á Asie orientale, Châu Âu Europe và Đông Bắc Mỹ Est de l'Amérique du Nord, trải dài đến
miền nam đến Mexique và Trung M ỹ
Amérique centrale.
Tại Việt Nam, nấm Tylopilus felleus
mọc khắp nơi chủ yếu trong những khu rừng tràm ngập nước, do đó có tên là Nấm
Tràm.
Người ta tìm thấy ngoài ở Phú Quốc,
còn có nhiều ở Thừa Thiên Huế, Quảng Bình. (Nguồn Dacsanngon), Tây Ninh ……
Hương vị mạnh mẽ của Thân quả nấm
có thể đóng vai trò trong những tác động tránh xa nó của những loài côn trùng insectes.
Loài ruồi nhỏ Megaselia pygmaeoides
ăn những thân quả của Nấm Tràm Tylopilus felleus trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, mặc dù
nó ưa thích những loài Bolet khác trong Châu Âu.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật :
Những ống của bào tầng ( mủ nấm, nơi
chứa tế bào sinh dục ) hyménium, dài
so với kích thước của mủ nấm đo được 2-3 cm sâu trong phần giữa của mủ nấm, màu
trắng kem đến màu hồng thịt, có những lỗ sinh bào tử pores tròn kế đó có dạng góc cạnh chuyển sang màu hồng bẩn bởi
những bào tử sporée, có màu hồng nâu.
Thân nấm stipe đo được từ 3 đến 15 cm dài, dạng
hình củ sau đó dài ra và thường cong, màu trắng kem bên dưới đến màu nâu đỏ ở
đỉnh ngọn, và hiện diện một mạng gân nhô ra đậm hơn.
Bên dưới mủ nấm, ống thường tách
rời chân nấm bởi một luống, màu trắng sau đó chuyển sang màu hồng khi trưởng
thành.
Mủ nấm: 5-15 cm có dạng bán
cầu tỏa lan ra, mặc dù có một số mẩu vật nhất định ở Bắc Mỹ có thể đạt đến 30
cm đường kinh; lồi đến lồi rộng ra hoặc gần như phẳng, khô, mịn, không nếp
nhăn, đôi khi trở nên nứt nẻ, màu nâu đến màu nâu rạm nắng thường với những màu
của quế cannelle, trở nên nhạt màu
theo tuổi. Bề mặt của những lỗ sinh bào tử từ màu saumon đến màu nhạt, đôi khi
có những vết bầm màu nâu nhạt, lỗ sinh bào tử tròn 1-2 mm, ống đến 2 cm.
Chân nấm, từ 2 đến 10 cm dài,
1-3 cm dày màu nâu sáng đến màu nâu sậm, ban đầu nó thường mập ra ở những mẫu
non như một củ trước khi kéo dài ra và thu hẹp ở phần trên và phần bên dưới
phình ra nơi mà nó gắn vào trong đài vật, sự phình ra này có thể biến mất đi
dần dần khi nấm phát triển to, đo được khoảng 7 và 10 cm (ít khi giữa 20 và 20
cm ), thường cong và giữa 2 và 3 cm rộng và có thể nhô ra 6 cm ở bên dưới. Chân
nấm được trang trí với một mạng lưới màu nâu rất rõ.
Nạt.
Màu trắng trở nên xanh hoặc màu
hồng nhạt, mềm hơn những bolets khác và trở nên xốp hơn khi nấm trưởng thành,
có mùi dễ chịu nhưng có một hương vị rất đắng đặc biệt là ở chân nấm đặc biệt hơn
là sau khi được nấu chín. Những loài côn trùng hiếm khi phá hoại loài này.
Có một màng sáng bóng bên ngoài mủ
nấm, từ màu nâu sáng đến màu nâu đậm, Lề mép của nấm dày và lồi ra.
Bào tử : 11-17 x 3-5 µm; có dạng
con quay đến hình ellip, trơn láng. Những bào tử có màu nâu nhạt với những phản
chiếu màu hồng, đỏ nhạt hoặc hồng nhạt. Những Basides ( những tế bào mang bào
tử spores ) dưới dạng một nhóm 4 bào
tử và đo được 18-25,6 x 7,0-10,2 µm.
Những lỗ sinh bào tử lúc đầu bên dưới có màu trắng và trở nên màu
xanh hoặc màu hồng nhạt carmine khi
trưởng thành. Gắn vào thân và phình lên khi trưởng thành già, thường phát triển
thành những vết màu nâu rỉ theo tuổi và dao động từ 1 đến 2 mm.
Những cystidium ( một trong những tế bào lớn của bào tầng hyménium ) trên những vách màng của
những ống (pleurocystidies) có dạng một cầu chì phình ra ở giữa, vách thành
mỏng và có nội dung hạt granuleux.
Nó có những điểm nhọn đến hình nón
và có kích thước tổng quát 36–44 trên 8,0–11,0 µm.
Bộ phận sử dụng :
Nguyên Cây nấm.
Thành phần hóa học và dược chất :
Phản ứng hóa học :
▪ bề mặt mủ nấm :
◦ màu cam đến màu cam đỏ nhạt với KOH,
◦ hoặc ammoniac, màu olive với
những muối sắt sels de fer;
▪ Sự tạo hạt sidérophile là một đặc
tính của loài này.
▪ Nhiều thử nghiệm hóa học đã được
ghi nhận có thể gíúp để xác định danh tánh của
loài này.
Trên nạt thịt mủ nấm chair du capuchon, sự sử dụng :
- formaldéhyde làm cho mô tế bào nấm có màu hồng nhạt,
- những muối của nguyên
tố sắt Fe dẫn đến một sự thay đổi thành màu xanh lá cây xám nhạt,
- chất aniline làm cho màu nâu đỏ nhạt với màu
oải hương lavande,
- và chất phénol có màu hồng tím đến màu nâu đỏ
nhạt.
▪ Trên lớp biểu bì mủ nấm capuchon,
- acide nitrique mang lại một màu cam orange-saumon,
- acide sulfurique tạo ra một màu đỏ cam,
- ammoniac thường có màu nâu,
- và một dung dịch hydroxyde de potassium thường mang lại
một màu cam.
▪ Nấm hấp thu được những cần dùng
thiết yếu của nó chất azote của
những acides aminés có nguồn gốc của sự phân hủy của những chất đạm protéines, một số lượng nhỏ hơn thu được
từ đường aminé glucosamine (một sản
phẩm của sự phân hủy của chất chitine,
một thành phần chánh của thành tế bào nấm parois
cellulaires fongiques).
▪ Đối tác của thực vật cộng sinh
giữa nấm và cây có lợi đôi bên mycorhizienne
được hưởng lợi từ khả năng của nấm sử dụng những dạng nitơ azote này, có nhiều trong đất của những khu rừng nơi nó thích hợp
sống.
▪ Những thân quả có thể được ký
sinh bởi loài nấm mốc moisissure
Sepedonium ampullosporum.
Sự nhiễm trùng dẫn đến một hoại tử nécrose của những mô của nấm tissu du champignon và màu vàng do bởi sự hình thành của một số lượng lớn
sắc tố aleurioconidies pigmentées (bào tử nấm vô tính conidies đơn bào unicellulaires sản xuất bởi sự phun ra từ những sợi tơ mang đính
bào tử conidiophores).
Vi khuẩn Paenibacillus tylopili đã
được phân lập từ vùng đặc quyền chứa những quần thể vi sinh vật hoại sinh hoặc
vi khuẩn mycorhizosphère của Nấm Tràm Tylopilus
felleus; đây là vùng chung quanh của những sợi nấm hyphes dưới đất nơi dây những chất dinh dưởng được phóng thích từ
nấm ảnh hưởng đến hoạt động của quần thể vi sinh vật microbienne trong đất.
Vi khuẩn bài tiết những phân hóa tố
enzymes cho phép nó phân hủy chất chitine phân tử sinh học biomolécule.
▪ Những thân quả của Nấm Tràm Tylopilus
felleus có một khả năng lớn tích tụ chất :
- césium radioactif
(137C)
từ đất bị ô nhiễm, đặc điểm được là
nó xâm nhập sâu vào trong đất bởi những khuẩn ty mycélium.
Ngược lại, loài này có khả năng
giới hạn sự tích lũy chất đồng vị phóng xạ isotope
radioactif 210Po.
Đặc tính trị liệu :
▪ Theo nghiên cứu thì Nấm Tràm có
tác dụng chữa hiện tượng của :
- cảm rhume,
- cúm grippe,
- nhức đầu, xoa dịu những cơn mệt mỏi.
Hơn nữa
loại nấm này còn được biết đến với tác dụng bồi bổ nội tạng bằng tinh dầu tràm chứa
bên trong nấm.
▪ Theo
truyền thống dân gian, Nấm Tràm là một nấm ăn mát.
Nghiên cứu :
▪ Nhà nấm học người Pháp Pierre
Bulliard mô tả loài này là Boletus
felleus vào năm 1788 trước khi nó được chuyển vào một giống mới Tylopilus. Đây là loài duy nhất của
giống Tylopilus và là một thành viên duy nhất được tìm thấy trong Châu Âu.
Nấm Tràm Tylopilus felleus là một đối tượng nghiên cứu trên
những hợp chất sinh học bioactifs thử
nghiệm cho đặc tính của chúng :
- chống ung bướu khối u antitumorales,
- và kháng sinh antibiotiques.
Khuẩn ty mycélium của Nấm Tràm Tylopilus felleus có thể cấy trồng và phát triển trong
một môi trường vô trùng axénique chứa
thạch agar.
▪ Nấm có thể hình thành những thân
quả nếu điều kiện nhiệt độ cho phép và những điều kiện ánh sáng mô phỏng trong một
ngày 12 giờ.
Những
nấm thường bị biến dạng và thường thiếu thân chân nấm, như vậy mủ nấm mọc trực
tiếp trên mặt đài vật và những mủ nấm có đường kính từ 0,5 đến 1,0 cm.
Hiện có
rất ít những loài của họ Boletaceae được biết để tạo thân quả trong nuôi trồng,
bởi vì những nấm champignons sống
cộng sinh có lợi cho nấm và những thực vật có mạch ectomycorhiziens có xu hướng không tạo thân quả ( nấm ) khi được
tách rời ra khỏi những cây chủ.
▪ Những
hợp chất của Nấm Tràm Tylopilus
felleus đã được ly trích và nghiên cứu cho những mục đích sử dụng
tiềm năng y học.
- Chất tylopilan là một bêta-glucane
đã được phân lập của những thân quả vào năm 1988 và được
chứng minh trong những phòng thí nghiệm như có những đặc tính :
- gây độc tế bào cytotoxiques,
- và để kích thích một phản ứng miễn nhiễm immunologique không đặc trưng.
Trong
đặc biệt, nó cải thiện thực bào phagocytose,
quá trình trong đó những đại thực bào macrophages
và những bạch cầu hạt granulocytes nuốt
chửng và tiêu hóa những vi khuẩn lạ bên ngoài bactéries étrangères.
▪ Trong
năm 2004, những nhà nghiên cứu đã báo cáo rằng những trích xuất của thân quả (
nấm ) đã ức chế phân hóa tố enzyme
lipase pancréatique; nó hành động của chất ức chế thứ hai của những 100 nấm mà
chứng đã được thử nghiệm.
● Hoạt động chống ung bướu khối u anti-tumorale :
▪ Trong
những thí nghiệm trên những chuột với những tế bào khối u cellules tumorales, nó dường như có những hiệu quả :
- chống khối u antitumoraux
khi
được quản lý dùng trong kết hợp với một chế phẩm Cutibacterium acnes trong một
nghiên cứu ở Ba lan năm 1994.
▪ Những
trích xuất polysaccharides cấy nuôi những khuẩn ty mycélienne của Nấm
Tràm Tylopilus felleus và được quản lý dùng tiêm dưới màng bụng intraperitoneale ở những chuột bạch với
một liều 300 mg / kg đã ức chế 100% sự tăng trưởng của những khối u ác tính
sarcome 180 và ung thư rắn cancers
solides Ehrlich (Ohtsuka và al., 1973).
▪ Một
nghiên cứu khác ở chuột được đánh giá hoạt động chống ung bướu khối u antitumorale của tylopilan, một glucane liên kết với β-
(1 → 3) (1 → 6) được phân lập của thân quả kết hợp với một chế phẩm của Propionibacterium
acnes (nổi tiếng gây ra miễn dịch immunogène).
Một lần tiêm chất tylopilan (25 hoặc
50 µg bởi chuột souris) là đủ để kéo dài thời gian sống trung bình của những
chuột được một tiêm cho tế bào khối u cellules
tumorales từ 17,5 đến 22,8 ngày.
Tylopilan được tiêm trong kết hợp
với chế phẩm kích thích tính miễn nhiễm immunostimulante
Propionibacterium acnes đã kéo dài đáng kể MST bởi so với chuột kiểm chứng cũng
như những chuột chỉ chữa trị với tylopilan,
điều này cho thấy rằng sự kích thích tính miễn nhiễm immunitaire tăng cướng hiệu quả chống ung bướu khối u antitumoral của tylopilan.
Ngoài ra, chất tylopilan đã cho
thấy một hoạt động gây độc tế bào cytotoxique
trong ống nghiệm in vitro trên những
tế bào khối u cellules tumorales của 180
TG-Crocker với những nồng độ khác nhau từ 37,5 đến 300 µg / ml (Grzbek và al.,
1994).
● Hoạt động chống viêm anti-inflammatoire
Sự chế biến chuẩn bị bột khô đông
lạnh lyophilisée của Nấm Tràm Tylopilus felleus được thử nghiệm trong
xét nghiệm phù nề œdème gây ra bởi
chất carraghénine ở chuột thể hiện một sự ức chế đáng kể của tình trạng viêm inflammation ở tất cả những liều trên 50
mg / kg (dưới da sous-cutanée), trong
khi sự quản lý uống không mang lại một kết quả nào đáng kể (Kohlmunzer và al.,
1977).
● Hoạt động kháng khuẩn antibactérienne .
▪ Một
hợp chất hiện diện trong nấm :
- N-γ-glutamyl bolétine,
Có một
hoạt động :
- kháng khuẩn antibactérienne
vừa phải.
Thực phẩm và biến chế :
▪ Phẩm chất ngoại hình được mô tả
là “ rất ngon miệng ” , nạt thịt
trắng hoặc màu kem và hồng dưới lớp biểu bì của mủ nấm, nạt thịt cũng có thể
phát triển của những tông màu hồng nơi mà nó bị cắt ngang.
Nó có một mùi nhẹ, thoải mái và hơi
khó chịu. Nạt mềm hơn những Bolets khác và có
xu hướng trở nên xốp hơn khi nấm trường thành.
Như tên
chỉ định của nó, nó cực kỳ đắng, nhưng không độc hại toxique. Vị đắng này trở nên nghiêm trọng hơn khi được nấu chín,
nên nó được cho là không ăn được ở một số người.
Một mẫu
nấm có thể làm đắng hỏng đi cả một bữa ăn được nấu với những nấm.
▪ Không
hẳn thế, nấm tràm mặc dù cực kỳ đắng khi ăn vào, nhưng sau cái đắng có một
hương vị thơm ngon, mát, nếu một người tiêu dùng chịu được lúc ban đầu. Nếu ăn
quen rồi sẽ thích và ghiền loại nấm tràm này.
Tại
Việt Nam, nấm tràm rất được ưa thích trong món canh với thịt …. Nhưng điều tất
yếu phải làm trước khi nấu ăn, người ta phải rửa thất kỹ để loại bỏ cát và bùn,
bởi vì loài nấm này thường mọc trong những rừng tràm ngập nước. Nhưng nếu rửa
quá kỹ sẽ mất đi vị đắng thơm nầy.
▪ Ở
Việt Nam đặc điểm là món Canh gà nấu cùng Nấm Tràm.
- món ăn được du khách từ mọi nơi đến với Phú
Quốc ưa thích, đặc biệt là món Canh Gà Nấm Tràm với hương vị rất đặc biệt và lạ
miệng mang phong cách riêng của nấm.
Người
ta cũng có thể chế biến những món ăn với nấm khi có đủ những nguyên liệu đa
dạng tại nhà nhưng cũng cần phải nếm thử trước nếu ăn lần đầu vì có nhiều người
không hợp vị rất đắng khi ăn loại Nấm này.
- khi
vào mùa nấm ở Phú Quốc và những tỉnh khác, người ta sẽ có cơ hội thưởng thức
nhiều món ăn ngon được chế biến từ Nấm Tràm có thể như :
- món
xào hoặc nấu canh, ăn lẩu hoặc nấu cháo hải sản cũng rất ngon.
Có thể
nói mọi món ăn đều có thể kết hợp cùng với loại nấm bổ ích này.
▪ Một
công thức địa phương của Pháp, Roumanie và Đông Đức Allemagne de l’Est đề
nghị hầm lửa nhỏ trong sữa đã loại bỏ kem lait écrémé, sau đó nó có thể ăn
được, hoặc nghiền nát thành bột và được sử dụng để làm hương liệu.
▪ Nấm sẽ
không vị đắng đối với những người thiếu mất nhạy cảm di truyền với hương vị
đắng amer, một đặc điểm được tạo ra
bởi gène TAS2R38 (thụ thể của vị giác récepteur
gustatif 2 thành viên 38). Hợp chất trách nhiệm của hương vị đắng goût amer chưa được xác định.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire