Tâm sự

Tâm sự

jeudi 26 décembre 2019

Nấm Kim châm - Collybie à pied velouté

Collybie à pied velouté
Enokis
Nấm Kim châm
Flammulina velutipes (Curt. : Fr.) Karsten
Physalacriaceae

Đại cương :
▪ Danh pháp đồng nghĩa :
- Agaricus velutipes
- Curtis Collybia velutipes (Curtis) Kumm.
- Pleurotus velutipes (Curtis) Quél.
Flammulina velutipes thuộc họ Physalacriaceae.
▪ Những danh pháp thông dụng như :
- enokitake (japonais pour «The Snow Peak Mushroom»),
- và « cendawan jarum emas »,
- hoặc «golden needle mushroom» (Malaisie).
- Collybie à pied velouté.
Việt nam thường được gọi là:
- Nấm kim châm hoặc Nấm đầu đinh.
Nó thường được trồng trong những vùng có khí hậu ôn đới, cần thiết có một nhiệt độ thấp trong quá trình của sự đậu quả fructification (Lou và al., 1983).
Nấm Kim Châm Flammulina velutipes là một nấm ăn được thuộc họ Physalacriaceae, thường gọi là « Collybie à pied velouté » hoặc trong tiếng Nhật dưới tên «Enoki».
Nấm nầy cũng được gọi “ Kim vàng aiguilles d'or” thích những nhiệt độ lạnh và độ ẩm tương đối, đó là lý do mà những Nấm Enoki thường tìm thấy trong những vùng núi.
Do những điều kiện bên ngoài, những mẫu vật hoang dã của những nấm nầy có thân ngắn với những mũ nấm cũng rộng như những thân của chính nó.
Những đồn điền trồng nấm cho được những mẫu vật mà người ta tìm thấy trong thường mại với thân dài.
Những Enokis Nấm Kim Châm Flammulina velutipes được bán trong một túi trong thương mại, giữ bảo quản được 14 ngày trong tủ lạnh.
Một khi túi mở túi ra, những nấm nầy phải được sử dụng ngay lập tức.
▪ Môi trường sống.
Nấm mọc trên những gỗ cứng chết (đặc biệt ở những loài như Cây Salix, Fagus et Alnus), đôi khi trên những cây sống và những cây suy yếu, trong mùa đông. Mọc thành những cụm bó.
Nấm Kim Châm Flammulina velutipes được tiêu dùng khá ít trong Châu Âu Europe, tuy nhiên, nấm nầy được trồng rất nhiều trong Châu Á Asie và được gọi là “nấm ngọn lửa nhỏ
Nấm là một loại hoại sinh saprophyte hoặc ký sinh parasite, hoàn toàn được bảo vệ để chịu đựng được những cái lạnh lớn, Nấm Kim Châm Flammulina velutipes nầy xuất hiện vào cuối mùa thu cho đến đầu mùa xuân.
Nó mọc trên nhiều cây gỗ cứng, đôi khi cũng, nhưng rất hiếm, trên những cây lá kim conifères, trực tiếp trên đất bị nhiễm nấm những rễ dưới chân của gốc cây hoặc cao hơn, trên những thân của những cây còn sống.
Nấm Kim Châm Flammulina velutipes nầy là chủ đề của một nuôii trồng phát triển tốt ở Nhật Bản Japon nơi đây nó được đánh giá cao cũng như ở trong Viễn Đông Extrême Orient.
Nó thật sự không được nhất trí ở Châu Âu Europe.
Nó mọc thành chùm trên những thân cây chết hoặc sống, thậm chí trên những rễ và những cành cây chôn trong đất.
Nó được trồng trong những môi trường trên những gốc cây hoặc trên môi trường căn bản mạt cưa sciure, và nó được thu hoạch khoảng 2 tháng sau khi gieo mầm nấm.
Nấm được trồng có màu nhạt hnơn nấm hoang dã.
● Yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự đậu quả của Nấm F. velutipes
▪ Nhiệt độ Température
Nhiệt độ là một trong những yếu tố quan trọng trong sự kiểm soát sự tăng trưởng của những khuẩn ty mycélienne và sự hình thành của những thân quả corps des fruits.
Những nhiệt độ cực đỉnh ( tối đa và tối thiểu ) là một quan trọng lớn để xác định sự tồn tại và sự phân bố của những loài nấm trong tự nhiên (Chang và Miles, 2004).
Nói chung, khuẩn ty mycélium phát triển trong khoảng từ 3 - 4C đến 33 - 34C. Nhiệt độ tối ưu nằm giữa 22 và 26 °C . Khuẩn ty phát triển chậm, nhưng không chết khi nó tiếp xúc với một nhiệt độ từ 3 đến 4 ° C.
Mặt khác, vào khoảng 34 ° C, sự tăng trưởng ngừng lại và ở mức độ trên 34 ° C, những khuẩn ty mycélium bị giết chết ngay lập tức (Tonomura, 1978).
Nhiệt độ cần thiết cho sự hình thành của những nấm ở trạng thái nguyên thủy, khi những khuẩn ty kết thành những quả bóng primordiums nằm giữa 10 và 20C.
Theo Kinugawa và Furukawa (1965), một nhiệt độ 15C có hiệu quả hơn nhiệt độ từ 5 - 10C để hình thành những nấm ở trạng thái nguyên thủy primordium.
Chính xác hơn, ở một nhiệt độ 15C, nó phải mất khoảng 15 giờ để hình thành của những trạng thái nguyên thủy primordiums, nhưng ở 5 hoặc 10C, nó phải mất khoảng 48 giờ.
Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng nhiệt độ tối ưu cho Nấm Kim Châm Flammulina velutipes đậu quả fructifie là từ 10 đến 15 ° C (Aschan-Åberg, 1958; Wakita, 1958; Kinugawa và Furukawa, 1965). Gruen (1969) cũng  đã được ghi nhận rằng sự tăng trưởng của những thân quả ( nấm ) là tốt nhất ở 16 ° C hơn là ở 21 ° C.
▪ Độ ẫm Humidité.
Độ ẩm của những chất nền và độ ẩm của không khí môi truờng cũng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của nấm .
Một độ ẩm cao từ (90 đến 95%) là thuận lợi cho việc ghim cố định épinglage và sự đậu quả fructification (Kües, 2000; Kinugawa, 1993; Flegg và Wood, 1985), nhưng hàm lượng độ ẩm trong chất nền còn có thể nghiêm trọng hơn đối với sự lây nhiễm.
Hàm lượng nước tối ưu cho những chất nền bằng gỗ là từ 35 đến 60% và, cho những chất nề khác, từ 60 đến 80%.
Những giá trị thấp hơn những phản ảnh của sự yêu cầu dưởng khí oxygène O2 của nấm trong chất nền, cân bằng với những nhu cầu về nước của nó (Ohga, 1999; Scrase và Elliot, 1998; Flegg và Wood, 1985).
▪ Cung cấp dưởng khí oxygène .
Nấm Kim Châm Flammulina velutipes là một loài nấm hiếu khí aérobie và phải được cung cấp đầy đủ số lượng dưởng khí oxygène O2.
Plunkett (1956) đã chứng minh rằng trong những điều kiện tiếp xúc liên tục với dioxyde de carbone CO2 trong không khí :
- (1) đường kính của mũ nấm pileus (chapeau) giãm với sự gia tăng của nồng độ của dioxyde de carbone CO2 (0,06 - 4,90% của dioxyde de carbone CO2);
- (2) Độ dài ra của chân nấm ít nhạy cảm với dioxyde de carbone CO2 hơn so với mũ nấm pileus;
- và (3) độ dài ra của những chân nấm và sự tiếp xúc của mũ nấm pileus cả hai đều bị ức chế bởi một nồng độ cao của dioxyde de carbone CO2.
Theo Long (1966), sự ức chế bởi dioxyde de carbone CO2của sự tăng trưởng của mũ nấm pileus có thể bị giới hạn ở những giai đoạn mở rộng của sự phát triển của mũ nấm pileus và không cho sự hình thành mũ nấm pileus và tăng trưởng sớm.
▪ Cường độ ánh sáng Intensité lumineuse.
Ngoài nhiệt độ, ánh sáng được cho là kích thích những thay đổi hình thái morphologiques diển ra trong quá trình hình thành của cấu trúc bào tử basidiocarpes của nhiều nấm đãm khuẩn basidiomycètes (Sakamoto và al., 2002).
Nó đã được ghi nhận rằng Nấm Kim châm Flammulina velutipes có thể hình thành những cấu trúc bào tử basidiocarpes trong bóng tối hoàn toàn (Kinugawa, 1977; Plunkett, 1956, 1953; Aschan, 1954), mặc dù rằng những cấu trúc bào tử basidiocarpes nầy thiếu phần mũ nấm khi trưởng thành.
Nó đã được chứng minh rằng đường kính của mũ nấm pileus gia tăng theo tỹ lệ với cường độ ánh sáng (cho đến 100 lx) (Inatomi và al., 2001), và do đó người ta nghĩ rằng sự hình thành của mũ nấm pileus của Nấm Kim Châm Flammulina velutipes đã được kích thích bởi ánh sáng.
Sự đậu quả fructification trong bóng tối cũng đã được ghi nhận cho một số những nấm khác của đãm khuẩn basidiomycètes.
Chẳng hạn như, khi Nấm Tóc mượt Coprinus cinereus (Schaeff.) Gray đã trồng trong bóng tối hoàn toàn; nó tạo ra một cấu trúc bào tử basidiocarpe với chân dài stipe và đầu rất mỏng và ít được phát triển ở phần bên trên và được hiển thị như một một chân nấm màu đen stipe foncé (Tusué, 1969).
▪ Nồng độ của ions hydrogène (pH)
Độ kiềm pH có hiệu quả lớn trên sự phát triển về hình thái morphologique. Những yêu cầu của độ pH cho sự tăng trưởng và sự đậu quả fructification khác nhau về giá trị tối ưu của chúng nhưng không nhất thiết trong cùng môt hướng của loại nầy đến loài khác (Miles, 1999).
Sự tăng trưởng của khuẩn ty mycélienne là ít ảnh hưởng bởi độ pH, nhưng sự phát triển cấu trúc bào tử basidiocarpe của một số loài xảy ra tốt nhất ở những giá trị của độ pH trung tính hoặc hơi acides giao động từ pH 6 - 7 (Kinugawa, 1993; Flegg và Wood, 1985).
Sự thay đổi độ pH xảy ra trong thời gian tăng trưởng (thí dụ, bởi sự sản xuất của acides hữu cơ) có thể kích hoạt phản ứng của sự tăng trưởng dinh dưởng croissance végétative đến sự đậu quả fructification (Miles, 1999).
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Nấm ăn được với một hương vị tinh tế, Nấm Kim Châm Flammulina velutipes được hình thành của một mũ nấm màu trắng và một chân dài có thể đo được đến 10 cm dài.
▪ Mũ nấm Chapeau :
Phẳng từ 5-10 cm đường kính, nhờn, màu vàng cam đến màu nâu cam, màu vàng nhạt tươi, với trung tâm thường màu đậm hơn, rất đều, lồi ra, sau đó phẳng và cuối cùng trải rộng ra đôi khi rủ xuống theo tuổi, biểu bì gắn dính, trơn láng, sáng bóng, nhớt khi ẩm.
Bìa nấm mỏng, dợn sóng, cuộn lên sau đó cong lại, có những vệt trong suốt.
Tế bào nằm bên trên mũ nấm và chân nấm Dermatocystides hình trụ khóa chặt, với vách tế bào hơi dầy, chứa một chất vàng nhạt, nâu trong kiềm kali K.
Biểu bì Cuticule của sợi nấm hyphes không đều nhau nằm lộn xộn, phân nhánh nhiều lần, rộng từ 2 đến 3 µ, xoắn, đi kèm theo tế bào nằm bên trên mũ nấm dermatocystides.
▪ Phiến nấm Lames :
rộng, mỏng, lỏng lẻo, cách đều nhau, tròn ở gốc, không bằng nhau, linh hoạt, màu kem vàng nhạt sau đó màu vàng cam đến màu nâu, từ 4 đến 8 mm rộng, bìa cạnh nguyên.
▪ Chân nấm Stipe :
kích thước 5 cm dài x 0,3 đến 1 cm đường kính, chất xơ, mịn, thường cong, thon dài loại, cứng, điển hình màu nâu rĩ đậm đến màu nâu nhạt hướng về phía gốc thường phẳng, màu trắng vàng nhạt mịn ở đỉnh.
▪ Bào tử Sporée :
Màu trắng kim loại, nhợt nhạt, hình ellip, đo được từ 7 đến 10 µ trên 3 đến 4 µ đường kính, nhẵn, không có lỗ nẩy mầm pore germinatif, không amyloïde và có lông keo dính poils gélifiés, trong như pha lê hyalines, màu lục lam acyanophiles. tế bào sinh dục đãm khuẩn Basides được khóa chặt.
▪ Nạt thịt Chair
Màu trắng đến vàng nhạt, mềm, đàn hồi, rất xơ ở chân nấm. Có một mùi yếu hoặc nấm, đôi khi có mùi của cây phong lử Géranium, hương vị ngọt.
Ăn được ở trạng thái rất non,  được trồng ở Nhật Bản từ năm 1969 dưới tên Enokitaké với phương pháp kéo dài chân nấm, trở nên rất mềm được ăn trong những súp, canh bún tàu.
▪ Vòng nấm Anneau : không.
● Hình thái học Morphologie
Collybie à pied velouté Nấm Kim Châm Flammulina velutipes là một loại nấm phân rả màu trắng ( trường hợp nấm trồng ) của đãm khuẩn basidiomycètes. Nó có một sự khác biệt đáng kể giữa nấm hoang dã và nấm trồng.
▪ Những nấm trồng do không tiếp xúc với ánh sáng dẫn đến có màu trắng, trong khi những nấm hoang dã thường có màu vàng nâu sẫm (Sharma và al., 2009).
Sự phát triển của màu sắc là do sự tích tụ của sắc tố pigments phénoliques trong những thân quả.
Khi nấm được trồng trong ánh sáng, hoạt tính của phân hóa tố phénol oxydase gia tăng (Nakayama và al., 1987).
▪ Vào năm 1985, một chủng mới, M-50, đã được sản xuất thành công ở Nhật Bản Japon. Đây là một giống đầu tiên của chủng trắng hình thành của những cấu trúc bào tử   basidiocarpes của Nấm Kim Châm Flammulina velutipes (Nakayama và al., 1987; Kitamoto, 1990).
▪ Những nấm trồng cũng được trồng để tạo ra một nấm có chân thân dài mịn mỏng, trong khi những nấm hoang dã sản xuất một chân thân ngắn hơn nhiều và dầy hơn.
Mũ nấm pileus đo được từ 2 đến 10 cm trên những nấm hoang dã, nhưng theo những kỹ thuật nuôi trồng, nó nhỏ hơn và thường từ 2 đến 3 cm.
Ban đầu, Mũ nấm pileus, hoặc nấp calotte, có dạng hình bán cầu hémisphérique, nhưng khi trưởng thành, nó mở ra trên một mặt phẳng. Bề mặt của mũ nấm có màu đỏ-cam, màu vàng nhuộm trên viền cạnh và đậm hơn ở trung tâm.
Những phiến mang màu trắng hoặc màu vàng nhạt và gắn nhẹ vào vật chủ (Chang và Miles, 2004).
Thân nấm là từ 5 - 10 x 0,4 - 0,8 cm trong tự nhiên và từ 2 - 0,9 x 0,2 - 0,8 cm trong nuôi trồng và hơi thon hướng về phía dưới.
Những cấu trúc đảm bào tử basidiospores màu trắng, hình ellip, trơn láng và từ 7 đến 10 x 3 đến 5 µm.
Phạm vi kích thước và màu sắc thay đổi trong những cơ quan của đậu quả fructification tùy thuộc vào chức năng của những điều kiện trong tự nhiên, và nó có những khác biệt giữa những cơ quan của đậu quả fructification được tạo ra trong tự nhiên và bởi những điều kiện của nuôi trồng nhân tạo culture artificielle (Chang và Miles, 2004).
▪ Những sợi nấm hyphes của khuẩn ty mycélium bào tử đồng nhất homosporeux của Nấm Kim Châm Flammulina velutipes có những vách ngăn septa và có một đường kính khoảng 2,1 đên 3,2 µm.
Những sợi nấm hyphes của khuẩn ty mycélium tế bào nấm chứa 2 nhân dikaryotique có những nối kẹp với những nhánh thường hình thành ngay bên dưới của những kẹp và thường ít xảy ra bên trên của kẹp (Ingold, 1980).
Những sợi nấm tế bào khuẩn ty chứa đơn nhân monocaryotes và 2 nhân dikaryotes của Nấm Kim Châm Flammulina velutipes sản xuất những oïdes một nhân duy nhất uninucleate (Brodie, 1936).
Bộ phận sử dụng :
▪ Toàn nấm được sử dụng trong y học.
▪ Bộ phận bên trên của nấm, phần bên dưới cắt bỏ dai cứng không dùng được trong thực phẩm.
Thành phần hóa học và dược chất :
● Thành phần hóa học và nghiên cứu khoa học trên một tiềm năng chống ung thư anticancéreux
Người ta tìm thấy trong những hợp chất hoạt động của những sesquiterpènes của những polysaccharides :
- (EA3, EA5, EA501, EA6 và SFA1),
- những glycoprotéines (proflamine),
- và một chất đạm protéine (FIP-fve).
▪ Những sesquiterpènes
Những sesquitèrpènes là những dẫn xuất của loại α-cuparénone. Nó có những đặc tính :
- kháng sinh antibiotiques (Ishikawa và al., 2000).
Énokipodine A
Cấu trúc của énokipodine A là loại :
- 2, 3, 4, 5-tétrahydro-2,7-dihydroxy-5, 8, 10, 10-tétraméthyl-2,5-méthano-1-benzoxépine (Ishikawa và al., 2000).
Énokipodine B
Énokipodine B là sản phẩm của sự oxy hóa tự động auto-oxydation của énokipodine A.
Cấu trúc của nó là thuộc loại :
- 5-méthyl-2-(oxo-1, 2, 2-triméthylcyclopentyl) benzoquinone (Ishikawa và al., 2000).
EA3, EA5 và EA501
Trong trích xuất nước của quả bào tử carpophore (sporophore) người ta tìm thấy 2 polysaccharides.
- Tên đầu tiên được gọi là EA3 là một β (1->3) glycane,
- tên thứ hai là EA501.
Cái tên nầy có thể được làm tinh khiết bởi sắc ký chromatographie trên séphadex G-200.
Dạng tinh khiết nầy được gọi là EA5. Polysaccharide EA5 nầy là thành phần thiết yếu của :
- glucose, galactose, mannose và arabinose (Dutein, 2002).
Hoạt động chống khối u anti tumorale của những polysaccharides nầy đã được chứng minh ở chuột.
Những nghiên cứu nầy được báo cáo rằng EA3 chỉ ra một tỹ lệ của sự ức chế của 82% với liều 1mg/kg/ngày và EA5 một tỹ lệ 84% (Yoshioka và al., 1973 và Ikekawa và al., 1973).
Tuy nhiên, EA501 là một hợp chất có tỹ lệ ức chế trên dòng tế bào ung thư sarcome 180, quan trọng hơn.
EA6
EA6 là một polysaccharide liên kết với chất đạm protéines. Nó cho phép một tiềm năng của tính miễn nhiễm immunité đặc biệt cho vật chủ hôte (Otagiri và al., 1983).
SFA1
SFA1 là một polysaccharide gồm của những liên kết β-(1->3) glucose.
Trong một nghiên cứu lâm sàng clinique, nó đã cho thấy rằng thành phần nầy, được tiêm vào trong màng bụng intrapéritonéal ở những chuột có sự hiện diện một dòng tế bào ung thư  sarcome 180 gây ra :
- một sự tăng sinh prolifération của tế bào bạch huyết lymphocytes,
- một sự giãn mạch máu dilatation vasculaire,
- và một xuất huyết hémorragie.
Sự tiến triển của dòng ung thư sarcome 180 của những chuột đã bị ức chế. Tuy nhiên sự ức chế nầy duy nhất chỉ diển ra trên cơ thể sinh vật sống in vivo bởi vì hành động của nó được qua trung gian bởi những tế bào của hệ thống miễn nhiễm système immunitaire (Leung và al., 1997).
Proflamine
Proflamine là một glycoprotéine được phân lập từ những khuẩn ty mycélium. Nó có hiệu quả bởi đường uống chống lại :
- những khối u dị sinh tumeurs allogéniques, ( khối u của mô người ghép có kiểu gen không giống người nhận ….cùng một loài)
- hoặc đồng sinh syngéniques, ( trái với allogénique, 2 động vật hiến và nhận có cùng một dòng thuần …) (sarcome 180, mélanome B-16),
- adénocarcinome 755,
- và lymphome de Gardner.
Nó gia tăng sự hình thành của kháng thể anticorps và hoạt động của sự tăng trưởng của tế bào bạch huyết lymphocytaire (Wasser và Weis, 1999).
FIP-fve (Fungal immunomodulatory protein of flammulina velutipes) FIP-fve là một thành phần của 114 acides aminés.
▪ Giá trị dinh dưởng nutritive và đặc tính y học của nấm Kim châm  Flammulina  velutipes
Tính hiệu quả của những Nấm Kim Châm Flammulina velutipes trong việc chuyển đổi chất thành chất đạm protéine là vượt trội hơn nhiều so với nhiều loài thực vật thậm chí cả động vật.
▪ Nói chung, những Nấm Kim Châm Flammulina velutipes có hàm lượng thấp của :
- năng lượng calories,
- muối sodium Na,
- chất béo,
- và cholestérol,
trong khi giàu bởi :
- chất đạm protéines,
- đường glucides,
- chất xơ thực phẩm fibre,
- vitamines,
- và nguyên thố khoáng minéraux.
Những đặc tính dinh dưởng nutritionnelles nầy làm cho những nấm trở thành một thực phẩm tốt cho ăn kiêng diététique (Buswell và Chang, 1993; Rajaratnam và al., 1993).
▪ Nấm Kim Châm Flammulina velutipes chứa :
- trọng lượng tươi poids frais, 89,2% độ ẩm humidité,
- 17,6%  chất đạm thô protéines brutes,
- 1,9% chất béo thô grasses brutes,
- 73,1% đường glucides,
- 3,7% chất xơ thực phẩm thô fibre brute,
- và 7,4% tro cendres dựa trên nguyên liệu khô (Crisan và Sands, 1978).
▪ Khuẩn ty mycélium và cấu trúc bào tử basidiocarpe của Collybie à pied velouté Nấm Kim Châm Flammulina velutipes có thể được đề nghị để hình thành của một thực phẩm bổ sung compléments alimentaires chống oxy hóa antioxydants (Bao và al., 2009; 2008).
▪ Nhiều thành phần hoạt tính sinh học bioactifs của một loạt những họ đã được phân lập của những bộ phận khác nhau của nấm, bao gồm :
- Những đường glucides,
- những chất đạm protéines,
- chất béo lipides,
- những glycoprotéines,
- những phénols,
- và những sesquiterpènes.
Ngoài ra, những thành phần hoạt động sinh học bioactives như :
- stérol,
- những sesquiteropénoïdes
- và hợp chất sterpurol của chúng,
- flammulinol-A,
- énokipodine
được phân lập từ Nấm Kim Châm Flammulina velutipes có hiệu quả mạnh :
- chống oxy hóa antioxydants,
- giãm hạ cholestérol hypocholestérolémiants,
- chống viêm anti-inflammatoires,
- điều hòa miễn nhiễm immunomodulateurs,
- kháng khuẩn antibactériens,
- chống nấm antifongiques
- và gây độc tế bào cytotoxiques.
Năng lượng thấp calories, một thực phẩn chất xơ alimentation en fibres tốt, của những chất đạm protéines với tất cả :
- những acides aminés thiết yếu,
- những nguyên tố khoáng minéraux,
- và những vitamines đầy đủ.
trong Nấm Kim Châm Flammulina velutipes đã được báo cáo bởi Wu và al.
Đặc tính trị liệu :
Như với những hầu hết của những nấm ăn được khác, những Nấm Kim châm Flammulina velutipes được biết là có những đặc tính y học.
Những Nấm Kim Châm Flammulina velutipes có chứa những polysaccharide.
▪ Những nhà nghiên cứu Nhật Bản Japonais và tàu đã cho thấy rằng là một thành phần tốt để chế tạo những phương thuốc :
- chống ung thư anti-cancer,
- và chống khối u anti-tumeur.
Người ta ước tính rằng, tỹ lệ bất thường thấp của bệnh ung thư cancer, ở  Nagano, ở Japon (Trung tâm nuôi trồng nấm Enoki) có liên quan đến mức tiêu thụ mạnh Nấm Kim Châm Flammulina velutipes trong vùng nầy.
▪ Nấm Kim Châm Flammulina velutipes cũng được biết đến để kích thích :
- hệ thống miễn nhiễm système immunitaire,
và để phục vụ để chế tạo thuốc :
- chống siêu vi khuẩn antiviraux,
- và chống vi khuẩn antibactériens.
Người ta cũng gán cho nó có hiệu năng để làm giãm :
- huyết áp động mạch pression artérielle,
- và cholestérol.
Cho đến ngày nay, cần thiết nghiên cứu khoa học y học trên những hiệu quả của những thuốc  Nấm Kim Châm Flammulina velutipes được tiến hành ở Nhật Bản Japon và ở tàu đều xác nhận rằng hầu hết những người châu á đã biết từ nhiều năm, những nấm là yếu tố mạnh tự nhiên để chữa lành bệnh.
Chỉ gần đây y học phương Tây đã đưa ra những thử nghiệm lâm sàng clinique để “chứng minh” sự hiểu biết thời cổ đại.
▪ Nấm Kim Châm Flammulina velutipes, là một loại nấm ngon giàu những :
- phân hóa tố peroxydase,
- phân hóa tố superoxyde dismutase,
và những hợp chất khác có thể ngăn ngừa một số bệnh nhất định nghiêm trọng như :
- ung thư cancer,
- và những bệnh động mạch vành maladies coronariennes.
▪ Nó cũng chứa những thành phần hợp chất ngăn ngừa cũng như :
- chữa lành bệnh gan maladie du foie,
- và những bệnh loét ulcères dạ dày ruột gastro-entériques
với điều kiện dùng chúng thường xuyên (Ying, 1987; Yoshioka và al., 1973).
Ngoài ra, như nhiều nấm khác, Nấm Kim Châm Flammulina velutipes chứa những chất :
- điều hòa tính miễn nhiễm immunodomodulatrice (Ko và al., 1995),
- chống khối u antitumorale (Ikekawa và al., 1982),
- và những chất hạ cholestérol hypocholestérolémiantes (Fukushima và al., 2001).
▪ Một hành động trên hệ thống miễn nhiễm système immunitaire
FIP-fve là hợp chất của 114 acides aminés. Chất đạm protéine nầy đã được chứng minh tính hiệu quả của nó trên :
- những tế bào bạch cầu lympho lymphocytes lưu thông của con người.
Thật vậy, nó đã ngăn chận những phản ứng phản vệ anaphylactiques gây ra ở chuột bằng cách gia tăng :
- sự sản xuất IL-2,
- và IFN-gamma.
Cả 2 cytokines nầy có liên quan trong :
- những dị ứng allergies,
- và những bệnh phù nề œdèmes (Ko et al., 1995).
Chính vì những lý do nầy mà FIP-fve được biết và được sử dụng để :
- làm dịu những dị ứng allergies
đối với gluten, đậu nành soja và với những chất đạm protéines của sữa bó lait de vache.
▪ Một vai trò chống khối u antitumoral.
Chất đạm protéine nầy điều hòa miễn nhiễm immunomodulatrice kích hoạt những tế bào bạch cầu lymphocytes giết chết khi nó được quản lý dùng 10 mg/kg/os.
Thật vậy, một sự gia tăng tuổi thọ đã được báo cáo cũng như một sự giãm của sự tăng trưởng của :
- khối u tumeur của BNL 1 MEA 7R.1 (carcinome hépatocellulaire) lớp I,
- và những CD (cluster différentiation) 80 của lớp II là những phân tử đồng kích thích   molécules co-stimulatrices trên những tế bào đơn nhân mononucléaires của máu sang.
Ngoài ra, một sự giãm sự tạo mạch angiogenèse đã được quan sát (Chang và al., 2009) .
FIP-fve cũng hoạt động trên những tế bào của những siêu vi khuẩn virus papillome người (VHP) trách nhiệm của :
- bệnh ung thư tử cung cancer de l’utérus.
Thật vậy, nó gây ra, sự sản xuất kháng thể anticorps. Kháng thể anticorps nầy giới hạn sự mở rộng siêu vi khuẩn expansion virale bởi sự kích thích của sự sản xuất :
- IFN gamma,
- CD4+ (gia tăng tỷ lệ sống sót survie),
- CD8+ (cho phép sự kích hoạt của những tế bào sát thủ cellules tueuses)
cũng như :
- tế bào đuôi gai cellules dendritiques (đặc trưng của kháng nguyên antigène) (Ding và al., 2009) .
 (1) Enoki Nấm Kim Châm Flammulina velutipes giàu thành phần polysaccharides và có thể được sử dụng trong :
- thực phẩm khỏe mạnh nourriture saine,
- và những sản phẩm mỹ phẩm cosmétiques cho hoạt động sinh học biologique của nó.
(2) Thử nghiệm hoạt động chống oxy hóa antioxydante cho thấy rằng FVE được hiển thị đến  99,7%, có thể ức chế :
- những tấn công của gốc tự do radicaux libres,
- và dưởng khí oxygène.
Nó cũng có thể cho thấy một khả năng của chélation của những kim loại métaux.
(3) Nấm Kim Châm Flammulina velutipes chứa giàu những chất xơ thực phẩm fibres, giúp gia tốc :
- độ phân hủy của cholestérol décomposition du cholestérol
và do đó có thể giãm :
- những mức độ của TG triglycéridémie,
- TC total cholesterol,
- và LDL cholestérol xấu.
trong máu và :
- những TG triglycéridémie,
- TC total cholesterol,
- và phospholipides
trong gan foie.
(4) Thành phần mycostérol có khả năng làm giãm :
- tổng số cholestérol total,
- và những LDL cholestérol xấu trong máu sang.
▪ Nấm Kim Châm Flammulina velutipes cũng được biết giàu vitamine B1 và có chứa những vết của kẽm Zn.
▪ Như một thực phẩm bổ sung, Nấm Kim Châm Flammulina velutipes được biết có những lợi ích cho những người mắc phải :
- tăng huyết áp hypertension,
- những người già, cao tuổi personnes âgées,
- và sự tăng trưởng của những trẻ em.
▪ Hoạt động sinh học biologie của nó có thể giúp làm giãm :
- đường máu glycémie,
- huyết áp động mạch pression artérielle,
- và cholestérol
Ngoài ra những hiệu quả còn có hiệu quả :
- chống huyết khối antithrombotiques của nó.
Nó không có hiệu quả độc hại toxique nào được biết trên cơ thể con người và là một nấm rất có lợi ích trên sức khỏe con người.
▪ Chất xơ thực phẩm fibre alimentaire là một polysaccharide hoạt động, là một phần của phần thực phẩm ăn được của Nấm Kim Châm Flammulina velutipes và không thể bị phân hủy bởi phân hóa tố ly giải enzyme lytique hoặc tiêu hóa digéré trong đường tiêu hóa con người.
▪ Chất xơ thực phẩm nầy hòa tan trong nước có thể được kết hợp với :
- cholestérol hoặc acide cholique bởi sự hấp thu,
- làm giãm số lượng acide cholique quay trở lại gan foie,
- và gia tăng quá trình trao đổi chất biến dưởng métabolisme của cholestérol,
- và chuyển hóa nó thành acide cholique.
Nồng độ của cholestérol bị giãm và sự hấp thu của những chất béo lipides trong ruột non intestin grêle bị xáo trộn; do đó :
- hàm lượng chất béo lipides trong máu,
- và xác suất bệnh tim mạch maladies cardiovasculaires có thể được giãm.
▪ Nồng độ của chất xơ thực phẩm fibres alimentaires hoà tan trong nước hydrosolubles ăn vào càng nhiều, tính hiệu quả trong sự giãm cholestérol máu sanguin càng cao.
Nó đã được chứng minh rằng, nuôi chuột với 1% chất xơ thực phẩm hòa tan trong nước fibres hydrosolubles là đủ để giãm :
- những chất béo lipides,
- và những đường mỡ triglycérides (TG) trong máu sang.
và :
- mức độ của đường mỡ TG triglycérides trong gan foie.
▪ Nó đã được báo cáo rằng những chất xơ thực phẩm hoà tan trong nước fibres hydrosolubles có khả năng điều hòa hoạt động giãm hạ mỡ máu hypolipidémique đáng kể hơn so với chất xơ không hòa tan trong nước non hydrosolubles.
▪ Cũng như, những chất xơ thực phẩm fibres alimentaires hòa tan trong nước hydrosolubles có khả năng :
- kết hợp của những muối mật sels biliaires,
- và biểu hiện một hiệu quả hạ mỡ máu hypolipidémique.
Nó đã đuợc chứng minh rằng thành phần mycostérol có thể làm giãm nồng độ của :
- tổng số cholestérol total,
- và LDL cholestérol xấu
trong máu và trong huyết tương plasma.
▪ Những hợp chất polyphénols của những Nấm Kim Châm Flammulina velutipes được biết để làm giãm nguy cơ của :
- bệnh tim mạch cardiovasculaire,
- và ung thư cancer.
Những hợp chất polyphénols, như là :
- quercétine,
- catéchine,
- ester d'acide gallique,
- và ester d'acide caféique,
có thể ngăn ngừa tính :
- gây độc tế bào cytotoxicité gây ra bởi H2O2,
- và những tổn thương oxy hóa oxydatifs
gây ra bởi những chất chống gốc tự do radicaux antifree
Cũng lợi ích để làm giãm sự oxy hóa oxydation của :
- những LDL cholestérol xấu,
- những tổn thương ADN,
- và tỹ lệ mắc bệnh ung thư cancer.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Taïwan có năng suất cao của Enoki Nấm Kim Châm Flammulina velutipes suốt năm đã được phát triển thành thực phẩm bổ sung dinh dưởng nutritionnels, và nó trở nên đề tài nghiên cứu hấp dẫn trong thế kỹ 21e siècle.
▪ Nấm Kim Châm Flammulina velutipes là một trong những nấm chánh ăn được được nhận biết từ lâu cho giá trị dinh dưởng nutritive và hương vị ngon của nó trong những nước Châu Á, đặc biệt trong tàu, Nhật Bản Japon, Vietnam và Đại Hàn Corée.
▪ Có những giá trị dinh dưởng nutritionnelles, y học dân gian được nhận biết từ lâu nấm nầy cho một loạt của sự sử dụng :
- chữa trị và phòng ngừa prophylactiques.
Thực phẩm và biến chế :
▪ Collybie à pied velouté Nấm Kim Châm Flammulina velutipes rất được đánh giá cao trong Châu Á Asie (người ta gọi là enokitake trong Nhật japonais), trong nấu ăn của nhiều nước mang lại cho nó một sự lựa chọn. Ở Nhật Bản Japon cung cấp khoảng 80% của sự sản xuất của thế giới.
Nạt thịt trắng của Nấm Kim Châm Flammulina velutipes mềm và bền dai. Hương vị của nó là ngọt dịu và mùi hương của nó hơi nhẹ của trái cây.
▪ Nấm Kim Châm Flammulina velutipes thường được phục vụ trong những soupes, những món xào, những salades và những món ăn. Nó có một hương vị ngon và hơi giòn .
Nó có hương vị ngon và giòn nhẹ.
▪ Những Nấm Kim Châm Flammulina velutipes là nấm ăn sống ngon. Nó trang trí và làm gia vị trong salades và trong bánh mì sandwichs.
Người ta để chúng vào trong những soupes, những thức ăn mì pâtes alimentaires, những rau cải légumes và những món ăn nấu chín ở phương Đông.
Chúng được cho vào thức ăn cuối cùng sau khi nấu để giữ một hương vị tinh tế của nấm.
▪ Chuẩn bị và nấu ăn :
Sau khi cắt bỏ phần chân quá dai và rữa sạch hết chất nhờn ở mũ nấm viscosité, tính nhất quán đàn hồi consistance élastique của mũ nấm có thể được  tô điểm cho một bữa ăn cơm như tất cả những nấm đen ( nấm mèo ) champignons noirs hoặc những nấm hương shiitake.
Những nấm nầy có một hương vị nhẹ nhưng ngon với một kết cấu dễ chịu giòn.
▪ Cắt và liệng bỏ phần bên dưới của bó  nấm (đối với nấm trồng phần bên dưới còn rễ dùng để trồng nấm mới ) ngâm chúng vào trong nước.
▪ Theo truyền thống, những Nấm Kim Châm Flammulina velutipes được nấu hơi chín. Nấu quá chín có thể đưa đến những thân nấm trở nên cứng và xâu dính thành chuổi sợi dai filandreuses.
Mặc dù nấu chín kỹ những nấm nầy dễ dàng tiêu hóa hơn bởi cơ thẻ.
▪ Những nấm nầy có năng lượng calories thấp và có chứa một số lượng vitamine D rất tốt.

Nguyễn thanh Vân




samedi 14 décembre 2019

Nấm Quy đầu thúi - Common stinkhorn

Common stinkhorn
Nấm quy đầu thúi
Phallus impudicus L.
Phallaceae
Đại cương :
▪ Phallus impudicus, còn được gọi với tên thường dùng như : satyre puant1, hoặc phallus impudique, đôi khi còn được gọi là Trứng của quỷ œuf du Diable ở trạng thái còn non, là một loài của nấm đảm khuẩn basidiomycètes của họ phallaceae.
▪ Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus, được biết đến dưới cái tên thông thường là stinkhorn ( stink = thối thúi ), là một loại nấm có thể nhận biết được với một mùi làm buồn nôn  nauséabonde và có hình dạng thuộc về dương vật phallique ở trạng thái trưởng thành, tính năng sau nầy nó đã được thể hiện như danh pháp của nó trong Anh quốc Angleterre ở thế kỹ XVIIe siècle.
◦ Ở trạng thái trưởng thành, nó gợi lên tượng hình của một dương vật cương cứng pénis en érection, nơi đây có tên gọi của nó Phallus ( có nghĩa là dương vật, quy đầu ) không thay đổi kể từ thời Linné, điều nầy hiếm thấy trong nấm học mycologie - và, như hầu hết những nấm trong bộ phallales, phát ra một mùi hôi thúi của xác chết trong sự thối rữa putréfaction (mùi hôi do sự phóng thích của 2 hợp chất lưu huỳnh sulfurés :
- diméthyldisulfure,
- và diméthyltrisulfure,
tình trạng ngộ nhận của khứu giác mimétisme olfactif nầy cho phép nấm thu hút những côn trùng hoại tử insectes nécrophages phát tán những bào tử spores của chúng chủ yếu bởi những động vật zoochorie.
Đầu của Nấm được biết dưới tên « gleba », vật liệu nầy chứa những những bào tử spores và được chuyên chở bởi những loài côn trùng bị thu hút bởi mùi hôi thúi, được mô tả giống như thịt con vật chết charogne.
Mặc dù mùi hôi thúi làm buồn nôn của nó, nó không độc hại và những nấm trưởng thành được tiêu dùng trong một số những vùng của nước Pháp và Đức.
▪ Sự phân phối và môi trường sống.
◦ Đây là một nấm rất phổ biến và được phân bố rộng rãi trong Châu Âu Europe và trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, nơi đây nó được tìm thấy trong những môi trường sống giàu những mảnh gỗ vụn như là trong những khu rừng và những khu vườn phủ rơm.
Nó xuất hiện từ mùa đến cuối mùa thu.
◦ Được phổ biến trong tất cả cùng Bắc bán cầu hémisphère nord, Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus phát triển trong Châu Âu từ cuối mùa xuân đến mùa thu, trong những rừng gỗ cứng như cây có nhựa résineux, thường nhất ở chung quanh những chủng cây già nhưng cũng ngoại lệ trên những chủng cây già hoặc những trên những thân cây mục nát.
Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus có thể được tìm thấy hầu hết trên khắp vùng Châu Âu Europe và Bắc Mỹ Amérique du Nord, và nó cũng được thu thập trong Châu Á Asie (bao gồm trong Tàu, Đài Loan Taiwan, và  trong Ấn Độ Inde), ở Costa Rica, trong Islande, Tanzanie, và trong Đông Nam nước Úc Australie.
◦ Trong Bắc Mỹ Amérique du Nord, nó được phổ biến nhất ở phìa tây sông Mississippi; loài Ravenel's stinkhorn (Phallus ravenelii) được phổ biến hơn ở phía Đông.
Nấm nầy có liên quan với gỗ mục nát, và như vậy, nó thường gặp nhất trong những rừng lá rụng, nơi đây đậu quả fructifie từ mùa đến cuối mùa thu, mặc dù nó cũng có thể được tìm thấy trong rừng lá kim conifères hoặc thậm chí trong những bải cỏ như những công viên và những khu vườn.
Nó cũng có thể hình thành của những sự kết hợp rễ nấm mycorhiziennes với một số cây nhất định.
▪ Sự phát tán của những bào tử spores
◦ Cấu trúc đậu quả fructifère bên trên đỉnh ngọn và màu trắng với một đầu hình chóp nhờn màu olive đậm.
Sự phát tán của những bào tử spores là khác với hầu hết những loại nấm “ điển hình” lan truyền bào tử của chúng vào trong không khí.
◦ Những stinkhorns Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus tạo ra, thay vào đó một khối bào tử spore dính trên đỉnh đầu gleba của chúng có một mùi mạnh và vị ngọt của xác con vật hôi thúi charogne để thu hút những loài ruồi mouches và những loài côn trùng khác.
▪ Những sản phẩm hóa học mùi hôi thúi trong đầu nấm gleba Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus bao gồm :
- méthanethiol,
- sulfure d'hydrogène,
- linalol,
- trans-ocimène,
- phénylacétaldéhyde,
- sulfure de diméthyle
- và trisulfure de diméthyle.
Thành phần cuối cùng nầy được tìm thấy phát ra bởi những vết thương ung thư nấm plaies cancéreuses fongiques.
Những thân đậu quả fructifications trưởng thành có thể được ngủi từ một khoảng cách xa đáng kể trong những khu rừng, và ở những nơi gần lân cận, hầu hết mọi người tìm thấy một mùi hôi thúi cực kỳ đáng kinh tởm.
Những loài ruồi đậu trên đầu gleba và hành động nầy, thu thập một khối lượng của bào tử spores trên những chân của nó và mang đi ở những nơi khác.
Một nghiên cứu chứng minh rằng những chủng ruồi mouches (loài Calliphora vicina, Lucilia caesar, Lucilia ampullacea và Dryomyza anilis) cũng ăn chất nhờn trên đầu nấm gleba, và ngay sau khi rời khỏi thân quả, nó sẽ thải của những phân lỏng có chứa những bào tử dày dặc.
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng những loài cánh cứng coléoptères (Oeceoptoma thoracica và Meligethes viridescens) được thu hút bởi nấm, nhưng dường như đóng vai trò ít quan trọng trong việc phát tán của những bào tử bởi vì nó có xu hướng ăn những mô sợi nấm tissu hyphal của thân quả corps fructifère.
▪ Nó cũng hiện có một mối liên hệ sinh thái écologique có thể có giữa những Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus và loài động vật có vú ăn thịt chồn blaireau (Meles meles).
Những cơ quan đậu quả fructification thường tập hợp trong một khoảng không gian từ 24 m đến 39 m của những lối vào; những nơi nầy thường chứa một nguồn cung cấp xác chết của loài chồn cadavres de blaireaux - tĩ lệ chết của những đàn chồn con là cao và sự tử vong có khả năng cao xảy ra trong những tộc đoàn.
◦ Thân đậu quả fructification của một số lượng lớn stinkhorns Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus thu hút một số lượng lớn quần thể của loài đôm đốm (Calliphora và Lucilla sinh sản trên xác động vật hôi thúi charogne), điều nầy bào đảm loại bỏ nhanh chóng những thân thịt chồn carcasses de blaireaux, và cũng loại bỏ một nguồn tiềm năng bệnh của tộc đoàn chồn blaireaux.
Hiệu quả nhuận trường laxatif của đầu nấm gleba Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus làm giảm khoảng cách của thân đậu quả corps fructifère đến nơi mà những bào tử được đặt để, bảo đảm tiếp tục sản xuất mật độ cao của stinkhorns Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus
Thực vật và môi trường :
● Mô tả thực vật :
Điều nầy có một điểm tương đồng với Nấm morille như (Morchella esculenta), đôi khi nó bị nhấm lẫn.
Mức độ tăng trưởng của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus được đo với mức độ 10–15 cm mỗi giờ.
Thân quả corps du fruit trong khi tăng trưởng có khà năng thực hiện cho đến 1,33 kPa của áp lực. Một lực đủ để cây nấm đẩy xuyên qua lớp nhựa đường..
Đôi khi được gọi là “ Trứng phù thủy œuf de sorcière, Nấm Quy đầu thúi Stinkhorn chưa trưởng thành có màu trắng nhạt hoặc màu hồng nhạt, có hình quả trứng, và thường từ 4 đến 6 cm x 3 đến 5 cm.
Một thân đậu quả corps de fructification chưa trưởng thành ("trứng") cắt theo chiều dọc, gồm có :
◦ Ở bên ngoài, một bao chân nấm volva màu trắng nhạt dầy, cũng được biết dưới tên  péridium ( lớp bao bên ngoài của thân đậu quả ), bao phủ đầu nấm gleba phủ đầy chất keo gélatineuse màu olive. Gleba nầy có chứa những bào tử spores và sau đó mùi hôi thúi thu hút những loài ruồi mouches;
◦ Bên trong lớp nầy là lớp màu xanh lục sẽ trở thành «đầu» của thân quả corps fruitier mở rộng, và bên trong nó tìm thấy cấu trúc màu trắng gọi là đế nấm réceptacle (thân khi nó được mở rộng ), cứng, nhưng có một cấu trúc xốp thoáng khí như bọt biển éponge.
▪ Quả bào tử Sporophore ( mang bào tử ) : phát triển dưới đất, dưới hình thức quả trứng từ 3 đến 6 cm với bên dưới của nó của những sợi khuẩn ty cordons mycéliens trắng.
Trứng sinh ra một loại nấm với một mũ nấm hình nón conique dưới dạng như một tuyến đầu nấm Gléba, một loại chất keo gélatine, chất nhày visqueuse màu olive đen nhạt olivacé noirâtre, tạo ra một mùi hôi khó chịu odeur désagréable, đặc trưng của xác chết cadavérique, đầu nầy được cưu mang bởi một chân nấm màu trắng nhạt pied blanchâtre, bên dưới còn lại trong bao của trứng œuf bao chung quanh theo cách của một màng bao chân nấm volve.
Trứng œufs : trở thành những Nấm Quy đầu thúi stinkhorns trưởng thành rất nhanh, trong một hoặc hai ngày.
Nấm Quy đầu thúi stinkhorn trưởng thành từ 10 đến 30 cm. cao và từ 4 đến 5 cm. đường kính, tăng trưởng vượt lên của một mũ hình nón từ 2 đến 4 cm. cao được bao phủ gleba nhầy màu nâu xanh lục nhạt.
Ở những nấm già nhất, chất mùn cuối cùng được loại bỏ, làm lộ ra một bề mặt trần trụi màu vàng nhạt đánh dấu những điểm nhỏ piquée và có đường rạch.
◦ Trong giai đoạn đầu tiên, Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus hiện diện dưới hình thức của một trứng kéo dài œuf oblong, từ 3 đến 6 cm, chôn trong đất sau đó trồi lên trên mặt đất và kéo dài bởi một dây dài khuẩn ty cordon mycélien.
◦ Khi cắt, quả trứng cho thấy nhiều phiến mỏng đi về phía trung tâm  :
- trước hết một bao bên ngoài,
- lớp bao bào tử phòng péridium, sau đó một lớp dầy trong suốt và chất keo gélatineuse,
- kế tiếp một lớp đậm hơn và đặc hơn,
- trong tương lai là đầu nấm gléba,
- và cuối cùng đến trung tâm, một thân trắng,
- và trong tương lai là một chân stipe.
Mũ nấm : từ 3 đến 4 cm, hình nón, cắt ngắn ở phía trên đỉnh bởi một vòng nhỏ, tổ ong, màu trắng nhưng hoàn toàn được bao phủ lúc bắt đầu của một đầu nấm gléba màu xanh lục olive đến màu đen nhạt.
Điều nầy, thu hút những loàu ruồi mang nó đi, phát tán cũng như những bào tử spores, và để trần những phế nang trắng alvéoles blanches.
▪ Chân nấm :  từ 10 đến 20 cm trên 2 đến 4 cm đường kính, kéo dài và mỏng dần dần hướng về bên trên, trắng, phế nang, rỗng, có hang hốc và dễ vỡ - nó thường ngả đổ xuống trong vài ngày, chạn nấm được bao bởi một màng volve, còn lại của trứng vỡ ra.
▪ Nạt thịt : màu trắng và xốp, không mùi chính bản thân nó. Mặc khác những đầu nấm gléba, trong khi, sự lan truyền mùi hôi thúi của tử thi cadavre mà người ta ngửi thấy nhiều ở chung quanh trước khi nhìn thấy nấm.
▪ Những bào tử spores có một dạng hình ellip thuôn dài với những kích thước từ 3–5 đến 1,5–2,5 µm.
● Quá trình tăng trưởng và phát triển của Nấm.
Trước khi rời khỏi đất, nó được bao bọc hoàn toàn trong màng bao valva của nó và thể hiện một quả bóng màu trắng nhạt, hình dạng và khối lượng của khoảng một trứng.
Khối lượng nầy mềm và khá nặng, và thường được gọi dưới tên “ trứng của quỷ và của những phù thủy”.
Nếu người ta cắt theo chiều dọc, người ta chú ý những phần sau đây, đi từ ngoài vào trong :
Một màng màu trắng, khá cứng, hình thành một lớp vỏ bao ngoài cùng của nấm và  liền trơn không có bất kỳ sự nối tiếp nào.
Một khối màu vàng nhạt gần như trong suốt và như chất keo nhờn gélatineuse; nó hình thành một lớp dầy đặc, bao phủ những phần bên trên và bên hông của trứng nấm, nhưng bị gián đoạn phía bên dưới đáy nơi đây nó kết thúc trong cul-de-sac ( không thể thoát ra ).
Chất nầy mang lại cho nấm trọng lượng và tính nhất quán consistance của nó. Bên dưới được hình thành một đĩa có bề mặt lõm và bao gồm một mô màu trắng và nhỏ gọn, trong đó được gắn của những rễ nhỏ radicules.
Một màng tương tự với màng bên ngoài cùng và lót mặt trong của lớp chất keo gélatineuse, vì vậy khối lượng được duy trì giữa 2 màng cứng và đề kháng..
Một màng rất mỏng, một loại màng trắng nhạt, thường khó khăn nhận biết, được đặt liền tức khắc dưới màng bên trong của màng bao chân nấm valva và hình thành một màng bao chân nấm bên trong valve interne và một phần.
Mũ nấm, khi người ta cắt dọc quả trứng, cho thấy dưới dạng 2 tấm màu xanh lục nhạt mảnh thon ở 2 cực của chúng và được thực hiện hướng về phía trung tâm. Nó bao gồm một chất màu xanh lục chứa trong một nang rộng hình đa giác larges alvéoles polygonales;
Đế nấm hình thoi, rỗng của một ống rộng trải ra bởi màng bao bên trong.
Nó hình thành bởi một loại mô tế bào tissu cellulaire rất lỏng lẽo, nhưng khép lại sau đó, như những nết nhăn và nén ép mạnh. Sự cung ứng nầy được giải thích dễ dàng do sự phát triển nhanh chóng của nấm.
Đây là những phần khác nhau bao gồm Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus với trạng thái viên bóng boule. Như người ta nói, đĩa bên dưới của nó cung cấp những rễ nhỏ radicules dài, nhiều và đề kháng, không gì khác hơn là những sợi khuẩn ty mycélium.
Màng bao chân nấm valva mất vài ngày để đi đến trưởng thành; khi đạt đến điểm nầy, nó bị xé rách một cách dữ dội, thường xuyên.
Sau đó, một nấm mới ra đời, sau khi xé rách bao nhốt trứng không đồng đều của nó, lao ra khỏi vật chứa nầy và được sinh động bởi ánh sáng, tăng trưởng nhanh chóng một cách kinh ngạc : chỉ trong chưa dầy 10 phút, nó có thể đạt được một sự phát triển hoàn chỉnh, sau đó một xuất hiện một nấm mới.
Cuống nấm kéo dài ra, mập rỗng, phồng lên ở phần giữa và thon dần về phía đỉnh, nó như một cột bông đá spongieux, và bề mặt của nó rỗng với một số lượng những nang nhỏ alvéoles.
Nó được gắn yếu ớt vào đáy của màng bao chân nấm valva và xuyên qua mũ nấm và kết thúc. ◦ Để réceptacle,  hình thành ở phần trên một đĩa trắng nhỏ hiện diện một lỗ thông với đường ống bên trong, nhưng thường được đóng lại bởi một mảnh vỡ của màng bao chân nấm bên trong valve interne.
◦ Mũ nấm ở đầu cuối tương đối nhỏ và có dạng hình chóp nón, hình thành bởi một tấm mỏng nhỏ bao gồm :
- mặt trong là hợp nhất và sáng như ngọc trai màu trắng,
- mặt ngoài của nó có một số tế bào nang đa giác alvéoles polygonales chứa đầy bởi một chất mềm và màu lục nhạt được gọi là chất nhựa trắng latex.
Người ta cũng nhận thấy rằng, trên mép chung quanh mũ nấm, một viền trắng nhỏ hình thành bởi một nếp gấp của mặt trong. Một sự xuất hiện của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus tiến đến sự trưởng thành, nhưng nấm nầy tự hủy hoại gần như nhanh chóng mà nó đã phát triển.
Chẳng mấy chốc, lớp phủ màu xanh lục nhạt của mũ nhuộm màu đậm hơn và được giải quyết trong một chất bán lỏng, hôi thúi fétide và màu đen nhạt chảy ra từng giọt xuống đất, dẩn đến sự nẩy mầm của chúng.
Mũ nấm không có lớp bao phủ của nó, không còn hiện diện một khung mỏng với bề mặt hình đa giác. Cùng lúc đó, cuống nấm càng ngày càng phồng to, đầu của chúng nghiêng che khuất bởi mũ nấm cuối cùng tự chúng tách rời ra, cuối cùng toàn bộ cây nấm rơi ngã vào đống rác.
◦ Theo Bulliard, nhựa latex sẽ bao gồm những cơ quan sinh sản của nấm. Những vô số bào tử spore, ban đầu tròn, kế đó hình ellilp sẽ gắn vào những thành vách của những nang alvéoles, và những khoảng trống sẽ được lấp đầy bởi những chất nhầy mucilagineuse không có vật gì khác ngoài chất lỏng thụ tinh.
Sự thụ tinh fécondation sẽ được diển ra ngay lập tức, tại thời điểm sự bể vở của những màng bao chân nấm valves, và chất nhựa latex, chảy ra trên mặt đất, bảo đảm sự nẩy mầm của những bào tử spores.
Những bào tử nầy spores, không phải, chỉ là phương tiện sinh sản duy nhất của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus, bởi vì nó thường có, ở rễ của nó, một củ nhỏ được chỉ định  thay thế nấm nguyên thủy champignon primitif.
Sự xuất hiện của loài thực vật khỏa tử cryptogame nầy, mùi hôi thúi của tử thi cadavéreuse bốc ra, không tạo ra sự cám dổ của những người tài tử nghiệp dư về nấm.
Thật vậy, người ta cho rằng những loài thú hoang dã tìm kiếm nó khi nó ở trong trạng thái quả trứng và những những con mèo rất thích nó, thậm chí sau khi nó phát triển hoàn chỉnh..
▪ Ngoài ra, những côn trùng insecte đã tham lam nuốt ăn những mủ latex, điều nầy có thể là nguyên nhân gây ra sự khang hiếm của giống nấm nầy.
Cuối cùng, nhiều tác giả báo cáo rằng những nông dân ở một số vùng ở Đức Allemagne làm khô nấm nầy và nghiền nát thành bột và được quản lý dùng cho gia súc, khi họ muốn kích thích hoạt động sinh sản của những con vật nầy.
Bộ phận sử dụng :
Toàn nấm cho những mục đích khác.
▪ Tiêu dùng ăn được duy nhất chỉ :
- Trứng nấm ( giai đoạn nấm chưa mở ra ).
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ Những hợp chất dễ bay hơi được phóng thích của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. Ở những giai đoạn trưởng thành khác nhau của nó, như là :
- dạng « trứng oeuf» chưa trưởng thành immature,
- thân quả trưởng thành,
- thân quả quá trưởng thành, quá già.
đã được khảo sát.
▪ Tổng số của 59 thành phần đã được xác định với sự giúp đở của phương pháp vi ly trích giai đoạn rắn trong khoảng không gian đầu headspace solid-phase microextraction (HS-SPME) tiếp theo sau bởi sắc ký hơi phổ khối chromatographie en phase gazeuse-spectrométrie de masse (GC-MS).
Nghiên cứu cho thấy một sự khác biệt của phẩm chất được xem như những thành phần chủ yếu, tùy theo những giai đoạn trưởng thành stades de maturité của chúng.
- trisulfure de diméthyle,
- cis-β-ocimène,
- trans-β-ocimène,
- 2-phénylacétladéhyde,
- và  2-phényléthanol
là những chất dễ bay hơi phong phú nhất trong những đậu quả trưởng thành fruits mûrs.
Oligosulfures de diméthyle, đóng góp quan trọng nhất cho mùi mạnh và mùi hôi buồn nôn nauséabonde của những thân quả corps de fruits của stinkhorn Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. đã vắng mặt ở những giai đoạn trứng ovoïdes và quá trưởng thành trop mûrs
Sự phát triển nhanh chóng của thân đậu quả corps fruitiers của Stinkhorn (Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers.), Ngay cả sau khi thu hoạch, được thể hiện bởi những sự thay đổi quá trình chuyển hóa chất biến dưởng métaboliques quan trọng trong nấm trong một khoảng thời gian ngắn (giờ).
▪ Mặc dù, sự phong phú của những thành phần dễ bay hơi thay đổi đáng kể trong quá trình trưởng thành maturation và già, nghiên cứu nầy chỉ tập trung duy nhất trên những thay đổi phẩm chất qualitatifs.
Mặc dù sự phong phú của các chất bay hơi thay đổi đáng kể trong quá trình chín và lão hóa, nghiên cứu này chỉ tập trung vào những thay đổi về chất.
Tổng số số lượng của hợp chất dễ bay hơi volatils ở giai đoạn dạng trứng ovoïde của stinkhorn Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. là rất thấp.
▪ Những thành phần chủ yếu là :
- 1,4-diméthoxybenzène,
có một mùi thơm của bông hoa nhẹ parfum floral (Dötterl và al., 2005), tiếp theo bởi :
- 3-octanone,
- 2-hexanone,
và một loạt những alcanes :
- (undécane, dodécane, tridécane, tétradécane).
▪ 3-octanone đã được ghi nhận như một trong những đóng góp chánh vào hương vị đặc trưng của những nấm (Fischer và Grosch, 1987, Pyysalo và Suihko, 1976, Venkateshwarlu và al., 1999) do mùi bơ beurre dịu ngọt và nấm (Cho và al., 2006)
▪ Những hợp chất mùi lưu huỳnh sulfuriques (oligosulfures de diméthyle),
là hợp chất hấp dẫn những loài côn trùng insectes, đã vắng mặt bởi vì nắp được bao phủ rộng rãi chứa những bào tử và được bao bọc tronng một màng của nấm.
Tuy nhiên, mùi hôi khó chịu có thể tiến hóa khi chuẩn bị chế biến của những «trứng» của Nấm Quy đầu thúi stinkhorn. 22 hợp chất dễ bay hơi, bao gồm :
- những oligosulfures de diméthyle,
- 2-phénylacétaldéhyde,
- 2-phényléthanol,
- photocitral B,
có thể được hình thành khi quá trình phân hủy của citral (Szente và Szejtli, 1987),
◦ Hợp chất 2-phényl-2-buténal,
là một chỉ số tiềm năng của cường độ rang torréfaction (Fadel và al., 2006),
và một số nhất định terpénoïdes) đã được xác định trong những thân quả corps fruitiers trưởng thành.
◦ Những chất như :
- 2- phénylacétaldéhyde,
- và  2-phényléthanol,
là 2 hợp chất mùi thơm quan trọng có nguồn gốc từ phénylalanine (Tieman và al., 2007), cũng đã được ghi nhận như chất thu hút những loài côn trùng insectes (Ragusoa và al., 2003, Zhu và al., 2005).
▪ Những terpénoïdes chánh đã đuợc xác định là :
- cis-β-ocimène,
- và  trans-β-ocimène,
thường được mô tả như trách nhiệm của những mùi của hoa tươi florales fraîches (Füssel và al., 2007).
▪ Một loạt những chất oligosulfures de diméthyle, như là :
- (disulfure de diméthyle,
- trisulfure de diméthyle,
- tétrasulfure de diméthyle)
đã được xác định như là :
- trisulfure de diméthyle,
là mạnh nhất.
▪ Người ta biết rằng những thành phần mùi hôi lưu huỳnh odorants sulfuriques hình thành trong quá trình phân hủy của những :
- acides aminés soufrés cystéine,
- cystine,
- và méthionine (Herbert và al., 1971, Kiene và Hines, 1995, Mackie và al., 1998).
Mặc dù nó hiện diện trong mức độ phong phú thấp hơn, những hợp chất lưu huỳnh sulfuriques nầy góp phần quan trọng trong việc gây ra mùi hôi buồn nôn nauséabonde của những thân đậu quả corps fruitiers trưởng thành, bởi vì giá trị “ ngưỡng giác quan seuil sensorielles ” của chúng là rất thấp (Golovjna và Rothe, 1980, O’Neill và Phillips, 1992).
▪ Thành phần trong hợp chất dễ bay hơi volatils của những thân đậu quả corps de fruits trưởng thành quá mức trop mûrs khác nhau đáng kể so với những thân đậu quả corps de fruits trưởng thành mûrs.
▪ 41 thành phần đã được xác định, những thành phần dễ bay hơi chánh volatils là :
- acide acétique,
- 2,3-butanediol,
- 2-phényléthanol,
- và 4-méthylbenzaldéhyde,
cũng được ghi nhận như chất thu hút những loài côn trùng insectes (Miles và al., 1975).
▪ Ngoài ra, một số nhất định của những thành phần đóng góp khác quan trọng cho hương vị,  như là :
-. những esters phénéthyliques,
- và những alkylpyrazines,
đã được xác định.
▪ Những oligosulfures de diméthyle chỉ được tìm thấy dưới hình thức của những vết nhỏ, bởi vì phần lớn của những chất nhầy có mùi hôi boue odorante đã bị mang đi bởi những côn trùng insectes.
Do đó, những thân đậu quả corps de fruits quá chín mùi trop mûrs có thể có một mùi hương  thơm rang arôme torréfié nhẹ tốt hơn trên một mùi hôi khó chịu odeur désagréable.
Đặc tính trị liệu :
▪ Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. có thể làm giãm những triệu chứng của :
- một sự tắc nghẽn obstruction mạch bạch huyết dai dẳng lymphatique persistante.
▪ Cơ chế hành động của trích xuất của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus có thể được giải thích bởi :
- những cytokines,
- và sự điều hòa của những phân tử molécules bám dính adhésion có liên quan đến viêm inflammatoires,
- sự giãm của độ nhờn viscosité của những chất chảy ra exsudats,
- sự tái tạo mạch (sự thông nối mạch) recanalisation của những mạch bạch huyết vaisseaux lymphatiques tắc nghẽn obstructifs,
- sự giãm áp suất bên trong của những mô tế bào,
- và thể tích của cánh tay.
▪ Một nghiên cứu khác mang trên hiệu quả của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. trong dự phòng huyết khối thromboprophylaxie ở những bệnh nhân mắc phải :
- của một bệnh ung thư vú cancer du sein đang chịu một điều trị hóa trị liệu pháp  chimiothérapie,
- và một chữa trị kích thích tố nội tiết hormonal.
▪ Huyết khối tĩnh mạch thromboembolique veineuse, sự hình thành một cục máu đông caillot sanguin trong một tĩnh mạch, và là một nguyên nhân thường xảy ra gây tử vong ở những bệnh nhân mặc phải bệnh :
- ung thư  vú cancer du sein.
Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. là một phương thuốc dân gian cho :
- bệnh một ung thư vú cancer du sein tiến triển từ thời cổ đại antiquité.;
những bệnh nhân mắc một bệnh định kỳ maladie récurrente thường được duy trì bằng thuốc chống đông máu anticoagulants trong suốt cuộc đời của họ.
Một nghiên cứu mới điều trị dự phòng prophylactique là cần thiết, cho thấy rằng những trích xuất của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. có thể làm giãm nguy cơ của điều kiện nầy bằng cách làm giãm tỹ lệ của :
- sự kết tập tiểu cầu agrégation plaquettaire.
Ngày nay có thể suy đoán rằng sự tiêu dùng lâu dài Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. có thể ngăn ngừa :
- những biến chứng complications huyết khối tắc mạch thromboemboliques
không phản ứng phụ ở những bệnh nhân mắc bệnh :
- ung thư vú cancer du sein
và có thể có một tiềm năng như một chất dinh dưởng ngăn ngừa hỗ trợ.
▪ Nó được sử dụng trong thời trung cổ époque médiévale như một phương thuốc dân gian chống lại :
- bệnh thống phong goutte
và như một lọ thuốc tình yêu potion d'amour.
▪ Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus là thuốc chữa trị chứng bệnh suy nhược thần kinh tình dục neurasthénie sexuelle với :
- chứng bất lực impuissance,
- chóng mặt vertiges,
- và rối loạn tiêu hóa dạ dày-ruột gastro-intestinaux.
Kinh nghiệm dân gian :
▪ Trong miền Bắc Monténégro, những người nông dân chà xát Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. lên trên cổ những con bò đực taureaux trước những cuộc thi đấu bò concours de taureaux để cố gắng làm cho chúng mạnh hơn.
Nó cũng được dùng để nuôi cho những con bò đực con jeunes taureaux bởi vì nó được xem như :
- một thuốc kích thích tình dục mạnh puissant aphrodisiaque.
Vào năm 1777, John Lightfoot tôn kính đã viết rằng, những dân cư Thuringe đã gọi những Stinkhoms Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus chưa mở ra là “ những trứng của quỷ œufs de fantômes hoặc yêu quái démons ” và sấy khô chúng và nghiền chúng thành bột trước khi pha trộn chúng vào trong những linh hồn esprits như :
- thuốc kích thích tình dục aphrodisiaques.
▪ Còn những trích dẫn của những chuẩn bị chế biến truyền thống nầy của những nước vùng Baltique pays baltes, dựa trên Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. lên men !!!
Loại nấm nầy nổi tiếng với hình thức gợi cảm ( liên tưởng ) forme évocatrice và bởi mùi hôi buồn nôn odeur nauséabonde được cung cấp một chân nấm mà người ta thực hiện cho sự lên men tùy theo một qui trình truyền thống trong Lituanie.
Sản phẩm thu được được dùng trong chữa trị truyền thống :
- bệnh “ ung thư cancer ”,
và trong một thời gian dài.
Những nhà nghiên cứu lituaniens đã thực hiện một nghiên cứu khác chứng minh những đặc tính :
- chống ung thư anti-cancéreuses
của những chế phẩm hơi gợi tình peu ragoûtante nầy.
▪ Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers., chữa trị :
- bệnh huyết khối thrombose.
▪ Là một thuốc :
- kích thích tình dục aphrodisiaque.
▪ Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. ) đã được sử dụng trong Châu Âu, để chữa trị :
- bệnh thấp khớp rheumatisme,
- động kinh épilépsie,
- bệnh thống phong goutte,
- và ung thư da cancer de la peau,
▪ Những người tàu đã thu hút sự chú ý của họ đối với loại nấm nầy như một phương thuốc chống lại :
- ung thư biểu mô môi carcinome de la lèvre.
▪ Ngoài ra, còn có những thông tin trên Dr Karo ở Đức Berlin người đã chữa trị thành công cho :
- ung thư biểu mô da carcinome cutané,
- và ung thư nội tạng cancer des internes với Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus.
▪ Trong những nước Châu Âu Européens, y học dân gian (Stinkhorn Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers.) thường được sử dụng như một nước ép jus của đậu quả tươi của nấm.
▪ Những người La Mã cổ đại, đã dành nấm nầy cho Cerera - nữ thần déesse của sinh sản fertilité. Những người Đức Allemands đã đặc tên là “một trứng của phù thủy œuf de sorcière”.
▪ Ở thời Trung cổ Moyen-âge, nó được sử dụng để chuẩn bị chế biến cái gọi là “ rượu mùi tình yêu liqueur amoureuse".
Nấm nầy được sử dụng bởi những ngưòi charlatans ( lăng băm, người bán thuốc dạo ) từ thời cổ đại Antiquité.
▪ Trong Áo Autriche, nó được gọi là “morelle podagra”. Y học dân gian Baltique ( cộng đồng ở đảo Île-du-Prince-Édouard và slave ( một trong những chủng tộc ở Đông và Bắc Âu ….) đề nghị sự sử dụng Zemestauki (Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers.) cho :
- những đau bụng douleurs abdominales,
- những bệnh thận maladies rénales,
để tắm và chữa trị :
- những vết thương loét plaies,
như một phương thuốc chống :
- bệnh thấp khớp rhumatismes,
- và mắc bệnh thống phong ( bệnh goutte ) podagre.
▪ Những thí nghiệm gần đây và những nghiên cứu lâm sàng cliniques cho thấy rằng nước ép jus của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. có một hoạt động :
- chống huyết khối antithrombogène,
điều nầy rất quan trọng trong sự ngăn ngừa của những bệnh :
- huyết khối thromboemboliques trong bệnh ung thư cancer.
▪ Những khối u ác tính tumeurs malignes gây ra một xu hướng tăng cao về khả năng :
- đông máu coagulabilité sanguine,
- và gây ra huyết khối thrombogenèse.
Nó được thành lập rằng hoạt động :
- chống huyết khối antithrombogène của thành vách mạch máu paroi vasculaire
ở những bệnh nhân bệnh ung thư cancéreux được giãm.
▪ Sự rối loạn của những đặc tính chức năng của thành vách mạch máu paroi vasculaire hỗ trợ cho sự thấm nhập của nó vào trong những khoảng không gian ngoài mạch máu extravasculaires và thích ứng với xác xuất của vị trí di căn locus métastatique.
Những tiều cầu kết dính vào bề mặt của những tế bào khối u tumorales tăng cường sức đề kháng của chúng.
▪ Yếu tố hoạt động chánh là polysaccharide PL-2 hiện diện trong nước ép jus của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus (PhJ), có một hiệu quả trên :
- sự kết tập bệnh lý tiều cầu agrégation pathologique plaquettaire trong thời gian quá tình ung bướu khối u tumoral.
Nghiên cứu :
● Nước ép jus PhJ Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. co thể tạo ra một hành động ngăn ngừa nhắm vào mục đích làm giãm :
- sự phổ biến của những tế bào ung bướu cellules tumorales trong cơ thể organisme.
▪ Những cuộc điều tra đã được thực hiện trên những chuột đực rats mâles Wistar. Dòng tế bào ung thư sarcome 180 đã được tiêm vào đường trong cơ bắp intramusculaire.
Những mức độ của :
- sự kết tập tiểu cầu agrégation plaquettaire,
- sự kết tập tiểu cầu nội mạch agrégation intravasculaire tự phát của những tiểu cầu spontanée des plaquettes,
- hoạt động chống kết tập activité antiagrégative,
- và chống đông máu anticoagulante của thành vách mạch máu paroi vasculaire
đã được xác định trong máu của những động vật.
Những kết quả cho thấy rằng khối u ác tính Sarcome 180 được cấy vào trong những động vật với sự giúp đở gia tăng sự kết tập tiểu cầu agrégation plaquettaire 53% với một sự gia tăng từ 2, 3 lần của hoạt động chức năng của tiểu cầu plaquettaire fonctionnelle.
▪ Hoạt động chống kết tập anti agrégative của thành vách mạch máu paroi vasculaire giãm 25% và hoạt động chống đông máu anticoagulante giãm 29%.
Nó đã cho thấy rằng nước ép nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus PhJ gây ra một hiệu quả trên :
- những chức năng của tiểu cầu fonctions plaquettaires,
- và trạng thái của thành vách mạch máu paroi vasculaire ở những chuột mang khối u tumeurs.
Nước ép jus Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus PhJ có thể thực hiện một hành động phòng ngừa nhằm mục đích làm giãm sự lan truyền của những tế bào ung bướu khối u tumorales trong cơ thể.
▪ Một điều tra khác cho thấy rằng Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. có thể được xem như một phương thuốc để :
- ngăn ngừa phù bạch huyết lymphœdème.
là sưng một phần ít nhiều quan trọng của cơ thể do hầu quả của sự tích tụ chất lỏng bạch huyết trong những mô liên kết tissus conjonctifs.
Chứng phù bạch huyết lymphœdème sau một phẩu thuật cắt bỏ vú mastectomie với sự loại bỏ nách ablation de l'aisselle và chiếu xạ rayonnement sau giải phẩu nách postopératoire de l'aisselle là một biến chứng thường xuyên và cực kỳ gây căn thẳng extrêmement stressante.
Đôi khi, chứng phù bạch huyết lymphœdème không xuất hiện cho đến nhiều năm sau khi chữa trị bệnh ung thư cancer đã diễn ra.
Hiện vẫn không có phương thuốc phổ biến có hiệu quả chống lại :
- chứng bệnh phù bạch huyết lymphœdème.
Dựa trên kinh nghiệm có được với liệu pháp của hội chứng sau huyết khối syndrome post-thrombotique, người đề xuất hiệu quả chữa trị của Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. trong những chuột trong việc hỗ trợ  điều trị bệnh phù bạch huyết lymphœdème.
▪ Trong nghiên cứu so sánh nầy, 206 người phụ nữ đã được chữa trị như là phòng ngừa trong thời gian là 2 năm và tiếp theo sau là 6 năm.
◦ 92 % của những người phụ nữ bị ảnh hưởng phòng ngừa với Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus không có sự phát triển phù bạch huyết lymphœdème nào trong thời gian quan sát là 6 năm.
◦ Tuy nhiên, trong nhóm kiểm chứng, chỉ có 59% không có phát triển phù bạch huyết lymphœdème nào.
◦ Một sự cải thiện của những phát hiện lâm sàng cliniques và trong cảm giác chủ quan của hạnh phúc đã được quan sát ở 88 % bệnh nhân mắc bệnh phù bạch huyết lymphœdème phát triển.
▪ Những nghiên cứu gần đây được thực hiện ở Riga, trong Lettonie, tại Hàn lâm y khoa Latvia Latvian Medical Academy trên dịch nước ép lên men của stinkhorn Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers. cho thấy rằng một phần đoạn hoạt động là một glucomannane được gọi là PI-2.
Những stérols và những acides phénol-carboliques cũng đã được xác định.
◦ Khi thử nghiệm trong phòng thí nghiệm với những động vật, dịch nước ép jus của nấm đã kích thích :
- gây độc tế bào T cytotoxiques les cellules T,
- và cải thiện hoạt động của những tế bào sát thủ tự nhiên cellules tueuses naturelles (NK),
đã chứng minh một hoạt động :
- chống căn thẳng anti-stress,
- và gây thích nghi adaptogène
cũng như :
- một hiệu quả chống ung bướu khối u antitumoral với dòng tế bào ung thư sarcome 180,
- và ung thư biểu mô carcinome d'ascite Ehrlich
và làm giãm những hiệu quả gây độc máu hémotoxiques của tác nhân :
- hóa trị liệu pháp chimiothérapeutique,
- 5-FU (Kuznecovs & Jegina, 1993).
▪ Những nghiên cứu trên độc tính cấp tính toxicité aiguë của nước ép jus lên men jus fermenté của stinkhorn Nấm Quy đầu thúi Phallus impudicus L. ex Pers.  trên những động vật đã chứng minh môt DL50 bao gồm giữa 1,5 và 50 ml / kg, tùy theo những loài.
Quản lý dùng mãn tính chronique của nước ép jus không dẫn đến những hiệu quả có thể chứng minh được của :
- đột biến mutagènes,
- gây quái thai tératogènes,
- gây ung thư cancérogènes,
- hoặc gây dị ứng allergènes. » (Medicinal Mushrooms, Christopher Hobbs, p183-184)
Thực phẩm và biến chế :
▪ Ăn được :
- Trứng nấm duy nhất.
▪ Ở giai đoạn trừng oeuf, những mảnh vụn của lớp bên trong (đế thụ thể réceptacle) có thể được cắt với một con dao và ăn sống.
Chúng dòn sắc nét và dòn với một hương vị của củ cải radis hấp dẫn.
▪ Loại nấm này được đánh giá và tiêu thụ trong Pháp và trong một phần của nước Đức Allemagne, nơi đây nó có thể đcược bán tươi hoặc ngâm và đvược sử dụng trong những saucisses.
Những loài tương thự được sử dụng trong Tàu.
▪ Trứng œuf, loại bỏ chất đông gélatine của nó, ăn sống được, ví dụ như trong salade, và có một hương vị nằm giữa củ cải radis và củ cải raifort.
Nó chủ yếu được thiêu dùng trong Viễn Đông Extrême-Orient. Một khi nấm phát triển, mùi hôi của xác con vật hôi thúi charogne proscrit tất cả được sử dụng trong ẩm thực culinaire.

Nguyễn thanh Vân