Hallow-green nori
Trường tảo ruột
Enteromorpha
intestinalis (Linnaeus) Nees.
Ulva intestinalis
L.,
Ulvaceae
Đại cương :
▪ Ulva intestinalis L., 1753
▪ Ulva bulbosa var. intestinalis (Linnaeus)
Hariot, 1889
▪ Ulva enteromorpha var. intestinalis (Linnaeus)
Le Jolis, 1863
▪ Conferva intestinalis (Linnaeus) Roth, 1797
▪ Enteromorpha compressa var. intestinalis (Linnaeus) Hamel, 1931
▪ Enteromorpha intestinalis f. maxima J.Agardh,
1883
▪ Enteromorpha intestinalis var. maxima (J.Agardh)
Lily Newton, 1931
▪ Enteromorpha intestinalis (Linnaeus) Nees, 1820
▪ Enteromorpha
intestinalis (Linnaeus)
Nees
▪ Enteromorpha vulgaris var. lacustris Edmondston,
1845
▪ Enteronia simplex Chevallier, 1836
▪ Fistularia intestinalis
(Linnaeus) Greville, 1824
▪ Hydrosolen intestinalis
(Linnaeus) Martius, 1833
▪ Ilea intestinalis (Linnaeus) Leiblein, 1827
Danh
pháp thường dùng khác của Pháp :
Entéromorphe
tubuleuse, cheveux de mer, persil de mer, ulve en tube, ao nori, ulve comprimée.
Tên
thông thường của quốc tế
Hollow green weed, gut weed, grass
kelp, tubular sea lettuce, stone hair, sea hair, link confetti, hallow-green
nori, hollow green nori, yellow-green hairweed, floating gutweed (GB) Darmtang,
Echt Darmwier, Enkel Tarmtang, Darmalge, Gemeiner Darmtang (D) Tarmalg (S),
Ohashi nori, bô-awonori, , bo-ao-nori, yore-awonori (J), Tahalib (Arabe).
Tên thông
thường Việt Nam
:
Trường tảo ruột, rong ruột biển.
▪ Sinh thái Ecology
Nhiều Enteromorpha spp. chịu đựng một loạt độ mặn salinité và một số thậm chí có thể sống
sót trong nước ngọt gần như tinh khiết. Chúng thường xảy ra trong những cửa
sông nước lợ, trong những khu vực cát nơi đây nước ngọt được thấm nhập tìm thấy
trong những hồ đá.
Là loài
thực vật épilithe, loài thực vật
sống trên đá của phần trên tầng trung duyên hải étage médiolittoral, thường hiện diện trong những vũng nước lòng
chảo cuvettes bởi vì loài này chịu
được tốt những môi trường độ mặn thay đổi. Bản thể có thể thay đổi rất nhiểu. Nó cũng là những quần thể phổ biến ở bãi
triều thượng nơi đây nó gắn vào những tảng đá rochers và những mảnh san hô corail
phơi ngoài không khí ở thủy triều thấp marée
basse.
▪ Rong
biển này cũng có thể sống bằng cách phụ sinh épiphyte trên những đài
vật sống khác nhau, như những rong lớn macro-algues,
những vỏ sò của loài phúc túc gastéropodes,
những mai cụa những con cua carapaces de
crabe, ...v...v....
Nó
thường hình thành một tấm thảm thực vật dầy đặc phục vụ của vi môi trường sống micro-habitats cho nhiều động vật không xương sống biển invertébrés marins như là : những
loài đẵng túc isopodes, loài song túc
( 2 chân khác nhau ) amphipodes, loài
nhuyễn thể mollusques và cua crabes. Nó có thể là một phần của chế độ
thực phẩm của một số loài động có xương sống vertébrés như là những loài hải ngưu lamantins.
▪ Những
Ulva của nhóm intestinalis
là những loài nitrophiles là loài
thực vật thích sống trong những môi trường đất hoặc nước giàu đạm nitrate có
đầy dẫy trong những vùng bị ô nhiễm ảnh hưởng bởi nước thải đô thị và nông
nghiệp (phân bón hữu cơ và phân bón engrais).
"Aonori"
hay rong xanh hoặc lục tảo (Monostroma spp. và Enteromorpha spp.)
Enteromorpha
prolifera và Trường
Tảo ruột Enteromorpha intestinalis (McHugh,
2003) cả hai được trồng và tìm thấy trong những vịnh nhỏ và trong những cửa
sông của Nhật Bản Japon.
Người
ta cũng tìm thấy trong nhiều nơi trên thế giới, bao gồm Châu Âu và Bắc Mỹ Amérique du Nord.
●
Điều kiện môi trường :
▪ Độ
mặn
salinité :
- Tản Enteromorpha có thể sống sót với những nhiệt
độ của nước khoảng 28 ° C và thậm chí với những nhiệt độ của không khí cao hơn.
Nó cũng có thể phát triển trong nước với một độ đục turbidité cao, mặc dù sự tăng trưởng tốt
hơn dưới ánh sáng mặt trời đầy đủ.
- Những thành vách tế bào của môi trường cửa sông Trường Tảo ruột Ulva intestinalis là mỏng hơn và do đó căn hơn những tế bào của những rong sống ở biển marines của cùng loài, cho phép những tế
bào phồng lên với dòng nước trong những điều kiện độ mặn thấp salinité và giảm trở lại trong thể hiện
mới trong nước có độ mặn cao hơn.
- Trường
Tảo ruột Ulva intestinalis gặp trong nhiều loại môi trường sống khác nhau và có
nhiều hình thức khác nhau. Nó được quan sát trong những nước ngọt và mặn trong
những hố, những hồ, hồ đất đá , những kênh rạch và những đá tảng.
▪ Trường
Tảo ruột Ulva intestinalis có một khả năng nở ra như những hoa trong những điều
kiện eutrophes
là một môi trường sống dễ bị hiện tượng phú dưởng eutrophication. Nó thể hiện một sự hấp thu, một tăng trưởng và duy
trì áp suất thấm thấu liên tục trong chất lỏng bên trong rong bằng cách kiểm
soát nồng độ muối và nước osmorégulation
nhanh chóng của những chất dinh dưởng nutriments,
đặc biệt trong những trường hợp độ mặn salinité
và ánh sáng lumière giảm.
Độ mặn
thích hợp cho sự tăng trưởng có thể là theo thứ tự 15-24 ‰, nhưng thay đổi
nhiều tùy thuộc vào dân số.
▪ Những
quần thể của Trường Tảo ruột Ulva intestinalis trên toàn thế giới bao gồm những
loại sinh thái khác nhau phần nào về mặt di truyền génétiquement, khác nhau loài này với loài khác, mỗi loài đặc biệt
thích ứng tốt và phát triển trong chế độ độ mặn của môi trường khác nhau.
Mặc dù
sự tăng trưởng thường liên quan tích cực với độ mặn salinité, nhiều quần thể có thể sống sót và tăng trưởng trong những
điều kiện của nước ngọt eau douce, và
những hiệu quả tiêu cực của một độ mặn thấp có thể được bù đắp bởi những nồng
độ của thành phần dinh dưởng nutriments
gia tăng.
Tuy
nhiên phần lớn của những kiểu hệ sinh thái, Trường Tảo ruột Ulva intestinalis thể
hiện một khả năng dung nạp với độ mặn salinité
(Cohen và Fong 2004, Edwards và al., 1988, Kamer và Fong 2000, 2001, Martins và
al., 1999, McAvoy và Klug, 2005).
●
Sinh cảnh Biotope :
Những
Trường tảo ruột Enteromorpha intestinalis là những loài euryhalines là những loài thủy sinh có khả năng chịu được sự biến
đổi lớn về độ mặn của nước ở những môi trường chung quanh, hỗ trợ với sự khác
biệt lớn của độ mặn của nước.
Người
ta có thể tìm thấy trong những nước biển eaux
marines, và trong những nước lợ saumâtres
như ở cửa sông estuaires, những đầm
nước mặn lagunes, và những đầm nước
muối marais salants, trong những nước
hơi sâu eaux peu profondes của duyên
hải thâm nhập bởi dòng nước ngọt ngầm dưới đất.
Nó mọc
trên những đáy của tản đá và đá và những vỏ sò, trong những phần trên của bãi
biển estran. Nó cũng ở trong những lỗ
nước bắn ra bởi những sóng.
Tùy
thuộc thủy triều, người ta có thể nhìn thấy phần đỉnh ngọn của tản thalles trôi nỗi trên mặt nước.
Những
tảo này thể hiện một phát triển tối đa vào mùa hè và biến mất một phần trong
năm.
Trường
Tảo ruột Ulva intestinalis thích những nước yên lặng của nước giao động eaux agitées,
và có thể sống trên những bên dưới đáy những tản đá trong vùng nước giàu chất
hữu cơ.
Ulva
compressa thích
vùng nước giao động và chịu được một sự thay đổi rộng rãi của nhiệt độ cũng như
những nước giàu những nguyên tố lưu huỳnh S và đạm azotés
có nguồn gốc hữu cơ organique.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực
vật :
▪ Trường Tảo ruột Ulva intestinalis
là một rong biển tươi bóng của một bãi cỏ xanh lá cây thấy rõ, cấu tạo bởi
những lá biển hình ống không đều nhau chen chút nhau và phồng to mọc từ một đỉa
nhỏ bên dưới gắn vào trên đài vật.
Những lá biển hình ống thường không
phân nhánh.
Những lá biển có thể có một chiều
dài từ 10-30 cm hoặc hơn và từ 6-18 mm đường kính, phần đỉnh đầu tròn và bao
gồm những bọt khí để cho phép nó dụng đứng thẳng lên.
Nó mọc ở dưới đáy trên mặt những
tản đá và những sỏi lớn ở độ sâu đến 7 m khi thủy triều xuống thấp, phần đỉnh
ngọn của rong có thể nổi trôi trên mặt nước. Người ta cũng gặp nó trong những
lỗ nước được cung cấp nước biển bởi những đợt sóng đánh vào.
▪ Tản thalle phồng lên hay hình ống, căn
thẳng, uốn nắn vặn, phân nhánh hoặc không phân nhánh, cấu thành của chỉ một lớp
tế bào chung quanh của một một ánh sáng trung tâm mở ra lấp đầy nước và không
khí .
Tản Thalle hình thành của một lưỡi lớp tế
bào đơn bào, hình ống và dạng như một ống ruột intestiniforme, có thể đạt đến 20 cm dài và gắn vào đài vật bởi 1
đỉa nhõ.
Tản thalle thường không phân nhánh nhưng
những sự tăng sinh có thể hiện diện ở bên dưới đáy của tản. Những tế bào không
được xếp thành hàng theo chiều dọc, nó hình đa giác và chứa duy nhất một plaste ( một cơ quan tế bào chất của tế
bào thực vật ) có dạng hình nắp, mang chỉ một pyrénoïde (ngoại trừ trong
một vài tế bào ) và nằm gần trên bề mặt của tế bào.
Sự phân
nhánh bắt nguồn từ bên dưới.
Thành
vách là một tế bào dày và Rong xuất hiện màu xanh lá cây vàng đế xanh lá cây
đậm. Tảo non gắn vào đài vật bởi những một tế bào căn trạng cellule rhizoïdale cơ bản.
Những Trường Tảo ruột Ulva
intestinalis già trôi tự do. Những tế bào hình chữ nhật đa giác nhìn từ bề mặt, thường xuyên sắp xếp
đều và không đều và kích thước từ 10-16 microns đường kính.
▪ Những
tế bào thường khá đều nhau một dạng, ngoại trừ những tế bào của loại căn hành rhizoïdales của những bộ phận bên dưới,
sắp xếp không đếu đặn trong những hàng theo chiều dọc hoặc chiều ngang.
▪ Những
loài của giống Ulva là khó khăn để xác định. Sự xác định phụ thuộc nhiều vào chi tiết của những
tế bào và sự sắp xếp của tế bào, thêm nữa hình thái học morphologie thô sơ, nhưng phức tạp bởi thực tế hình thái học morphologie của một loài có thể thay đổi
đáp ứng với những điều kiện của môi trường.
Thí dụ : Trường
Tảo ruột Ulva intestinalis và Ulva
compressa (như Enteromorpha) cả 2 loài khác biệt nhau, di truyền học génétiquement khác biệt và sự sinh sản
riêng rẻ ở những loài (Blomster và al., 1998).
Tuy nhiên nó khó khăn để phân biệt. Sự có mặt hoặc
không của nhánh lá là đặc tính hình thái học morphologique thô thiển là hữu ích nhất để phân biệt những loài.
Nhưng một sự mơ hồ tồn tại bởi vì nồng độ thấp của
độ mặn hoặc cú sốc ( sự thay đổi đột ngột ) độ mặn có thể gây ra một sự phân
nhánh ở Rong Trường Tảo ruột Ulva intestinalis. Tuy nhiên, nếu người ta tính đến yếu tố môi
trường, như là độ mặn salinité, sự
phân nhánh có thể được sử dụng để xác định một cách chính xác đa số của những
tản thalles (Blomster và al., 1998).
Là một lục tảo, thành phần lá tảo hình ống phồng lên
mọc từ một bộ phận đỉa nhỏ bên dưới. Những lá tảo thường không phân nhánh non ramifiées, nó có thể có từ 10-30 cm dài
hoặc thậm chí hơn và từ 6-18 mm đường kính, thông thường với những ngọn đỉnh
tròn.
Đây là một rong biển hằng niên của mùa hè, hình
thành những đám lá tảo trắng nhuộm màu trắng ở cuối mùa.
Nó có thể dạt đến 1 m cao và tốc độ tăng trưởng của
nó là từ 0,15 đến 0,25 cm mỗi ngày.
Đây là loài rong chịu mặn euryhaline : nó có khả năng dung nạp trong phạm vi rộng của độ mặn salinité.
● Chu kỳ sinh sống Cycle de vie
▪ Trường
Tảo ruột Ulva intestinalis có chu kỳ sinh sống có sự luân phiên giữa 2 thế hệ digénétique haplo-diplontique đẳng cấu ( hình dạng những thế hệ không thể phân
biệt được ) isomorphe, cho sự phát
triển :
- Những
giao từ thực vật gamétophytique đơn bội haploide, với n nhiễm thể chromosomes) và đẵng cấu isomorphe ( có nghĩa là người ta không
biệt hình thái của những giao tử thực vật gamétophytes
của những bào tử thực vật sporophytes),
sản xuất những giao tử gamètes phái
tính sexuels và bào tử thực vật sporophyte vô phái asexué sản xuất những động bào tử zoospores.
Những
giao tử có 2 chiên mao biflagellés và
những động bào tử thường có 4 chiên mao quadriflagellées.
- Những
bào tử thực vật sporophytes lưởng nhiễm 2n không giảm nhiễm haplodiplobiontique (một giai đoạn bào tử thực vật lưỡng nhiễm 2n sporophytique diploïde, với 2n nhiễm thể
chromosomes, kết quả của sự thụ tinh,
thường xuất hiện trên những bãi biển có nhiệt độ température và độ mặn cao hơn giao tử thực vật gamétophytes.
Những
bào tử thực vật sporophytes lưởng bội
2n diploïdes tạo ra bởi giảm phân méiose tạo ra 4 bào tử spores 4 chiên mao quadriflagellées với n nhiễm thể chromosomes, sau khi cố định, cho những giao tử thực vật đơn bội gamétophytes haploïdes đực hoặc cái , lần lượt sẽ tạo ra những giao tử gamètes đực và giao tử cái 2 chiên mao biflagellés, sẽ hợp nhất trong khi thụ
tinh fécondation để tạo ra những động
bào tử planozygotes lưỡng bội
diploïdes 4 chiên mao quadriflagellés.
▪ Những
đồng hình giao tử 2 chiên mao isogamètes biflagellés của những loại
phối hợp đối đầu nhau và những tiếp hợp tử 4 chiên mao zygotes quadriflagellés hình thành chuyển động chỉ trong một thời
gian ngắn. Nó neo bám ở đầu phía trước của chúng trên những đài vật cứng rắn và
những rong lớn khác, những chiên mao của nó tự rút biến mất và tiết ra một
thành vách tế bào paroi cellulaire.
Sau đó
mỗi tế bào được phân chia thành 2 tế bào,
phần bên dưới hình thành một đế giữ, và tế bào đầu ngọn phân chia và phân chia
lại để hình thành những tế bào thực vật của tản thalle.
Những động bào tử 4 chiên mao zoospore quadriflagellées được tạo ra
bởi những tản bào tử thực vật lưỡng bội sporophytiques
diploïdes.
Nó bao
gồm như những tiếp hợp tử zygotes và phát triển để tạo thành những
tản thalles giao tử thực vật đơn bội thalles gamétophytiques haploïdes.
Sau khi
cố định hợp tử zygote mất những chiên
mao flagelles và được bao quanh bởi
một màng paroi trước khi phát triển
thành một bào tử thực vật mới sporophyte,
do đó hoàn tất chu kỳ.
Sự thụ
tinh được gọi là anisogame ( hình
thức của sự thụ tinh fécondation
trong đó 2 giao tử gamète đực và cái
đều cử động nhưng về kích thước và hình thái khác biệt nhau trái ngược với
isogame ) bởi vì nó bắt nguồn của sự hợp nhất của giao tử gamètes không giống nhau dissemblables.
Bào tử spores và giao tử gamète được tạo ra ở bìa của những tản thalles. Sau khi phóng thích những bào tử spores và giao tử gamètes,
môi trường của vùng đổi màu và rong chết.
Tản có
thể thalle sau đó có thể được tái
sinh trước khi xuất hiện một thúc đẩy thứ hai của sự tái sản xuất, chu kỳ khác
tiếp diển..
Loại
thứ hai động bào tử 4 chiên mao quatriflagellées,
nhìn chung không phù hợp tốt với giá trị thấp của độ mặn salinité và với một thời gian dài của khô hạn dessiccation.
▪ Những
bào tử thực vật sporophytes thường
cũng có khả năng tái sản xuất trên những thời gian dài hơn so với giao tử thực
vật gamétophytes (Cordi và al., 2001,
Pringle 1986).
Swarmers
( chỉ loại cây con, ấu trùng, động bào tử không nhận diện được ) có thể sống
sót dưới hình thức di động trong thời gian khoảng 5-8 ngày.
Nó phân
tán tốt, bởi vì nó có tính quang chiến thuật tích cực phototactiques và như vậy có thể duy trì ở mức độ cao trong cột
nước, điều này cho phép chúng di chuyển cách xa quần thể cha mẹ (Hoffman và
Camus 1989).
▪ Khi
những tế bào sinh sản giao tử hay động bào tử được phóng thích, chỉ còn
thành vách của tế bào ban đầu còn lại. Sự phóng thích này thường xảy ra khoảng
thời gian thủy triều của mùa xuân ( chu kỳ âm lịch cycle lunaire).
Trong
những bộ phận thụ của tản, nó bị phân hủy khi nội dung của chúng đã chuyển biến
thành những giao tử gamètes hoặc
thành động bào tử zoospores.
Khi
những tế bào sinh sản giao từ hay động bào tử được phóng thích, chỉ còn thành
vách của tế bào ban đầu còn lại. Sự phóng thích này thường xảy ra khoảng thời
gian thủy triều của mùa xuân ( chu kỳ âm lịch cycle lunaire).
● Sự sinh sản vô phái,
Bằng
phương tiện của động bào tử zoospores
4 chiên mao quadriflagellées hình
thành từ bất cứ tế bào ngoại trừ những tế bào vùng gốc.
Mỗi tế
bào có thể sản xuất ra 4, 8, 16 hoặc 32 động bào tử zoospores. Thoát ra bởi một lỗ mở ra trong thành vách tế bào paroi cellulaire, nó phát tán trong một
thời gian nhất định để để cài đặt trên một bề mặt thích hợp. Nơi đó nó phân
chia thành một sợi, với tế bào gốc trở nên bám móc vào đài vật.
Sự sản
xuất hữu tính là đồng hình giao phối isogame,
đôi giao tử 2 chiên mao gamètes biflagellés hòa hợp với nhau từ những
rong khác nhau.
Tiếp
hợp tử zygote kết quả nảy mầm trong 1
ngày hoặc 2 ngày để tạo thành một rong mới.
Thành phần hóa học và dược chất :
▪ Những thông tin trên những đặc
tính của Enteromorpha khác nhau đáng kể, có thể bởi vì nó luôn không chỉ rõ
loài nào đã được phân tích.
Enteromorpha spp. chứa (cho 100 g của
trọng lượng khô ) :
- chất đạm protéines 12-15 (-20) g,
- chất béo matières grasses 0,3-1,5 g,
- hydrates de carbone
46-53 g
- và tro 21-22,6 g.
Thành phần chất béo lipide phổ biến nhất được tìm thấy là :
- sitosterol d'acide
gras không bảo hòa insaturé,
có thể giúp để giảm mức độ cholestérol
trong những tế bào cellules.
▪ Những hydrates de carbone chủ yếu
là :
- những đường glucides,
- và tinh bột amidon.
Nó chỉ ra rằng tất cả những acides
aminés thiết yếu là hiện diện, cũng như :
- chondrine,
- cystéine,
- acide D-cystéinolique,
- acide glutamique,
- và proline.
Đặc biệt những dữ liệu trên những
hàm lượng vitamines biến thiên, chỉ định cho 100 g Enteromorpha (trọng lượng
khô) :
- vitamine A 500-1300
UI,
- vitamine B1 0,04-0,6
mg,
- vitamine B2 0,52-2,05
mg,
- niacine 1-6 mg,
- vitamine C 10-43,2 mg,
- vitamine B12 1,3 μm
- và acide folique 42,9
μm.
▪ Những dữ liệu trên những tocophérols
(vitamine E) không có sẵn.
▪ Những nguyên tố khoáng minéraux (mg / g trọng lượng khô ) bao
gồm :
- calcium Ca 840-910,
- phosphore P 740-800,
- sắt Fe 10-35,
- sodium Na 530-570
- và potasium K
3200-3500.
Đặc tính trị liệu :
▪ Nó được trồng và thương mại hóa ở
Nhật Bản Japon và Đại Hàn Corée (của
những lưới được gieo hạt với những bào tử và để chìm ngập trong nước ) và được
thu hoạch bằng tay hoặc bằng máy.
Nó chứa
khoảng 20% chất đạm và thấp chất béo và muối sodium Na và giàu chất sắt Fe và
nguyên tố khoáng calcium Ca.
▪ Hàm
lượng vitamine nhóm B thường cao hơn cso với phần lớn những rau cải légumes, và
mặc dù hàm lượng vitamine A là cao, nó chỉ hiện diện một nửa so với rau dền tây
épinards.
Những
rong biển
Trường Tảo ruột Ulva intestinalis nầy không
hấp thu những thành phần độc hại toxiques.
▪ Trong
thực vật liệu pháp phytothérapie Tàu Trường Tảo ruột Ulva
intestinalis được sử dụng chống lại :
- bướu giáp goitre,
- và chứng bệnh tràng nhạc scrofule,
như :
- hạ sốt antipyrétique,
để chế
biến một dung dịch mới tươi mát liquide
rafraîchissant và để chữa trị :
- say nắng insolation,
- viêm phế quản bronchite,
- ho toux,
- và bệnh hen suyễn asthme.
▪ Những
bộ sưu tập của quần thể hoang dả không được đánh giá bởi vì nó cấu tạo bởi
những tản thalles già khác nhau.
Những
lá tảo mềm và ngon miệng, trong khi những tảo non là :
- chất sụn giòn cartilagineuses,
- chất xơ fibreuses
- và hơi cay amères.
Một khi
nuôi trồng, những rong biển có thể thu hoạch ở giai đoạn mong muốn, dựa trên :
- chức năng nhất quán,
- hình dạng,
- và màu sắc.
Ứng
dụng :
▪ Những
Trường Tảo
ruột Ulva intestinalis này được nuôi sống bởi
quang tổng hợp photosynthèse, đó là
tại sao nguời ta không tìm nthấy nó ở bên dưới của vùng ánh sáng zone photique là vùng biển tính từ bề
mặt nước đến độ sâu tối đa của biển hoặc hồ nơi đó có ánh sáng đủ để hiện tượng
quang tổng hợp xảy ra.
Hoạt
động quang tổng hợp photosynthétique
cung cấp năng lượng énergie. Sự đồng
hóa của những chất dinh dưởng được thực hiện bởi những lá rong được cấu tạo
thành một chân đế của tế bào cho phép một sự đồng hóa rất tốt assimilation.
▪ Những
Tảo bao gồm những loài của giống Ulva, đồng hóa những nguyên tố muối
dinh dưởng sels nutritifs (nitrates
và phosphates).
▪ Do
hàm lượng cao của chất đạm azote và
nguyên tố phosphore Trường Tảo ruột Ulva intestinalis là một phần của Tảo xanh được sử dụng theo truyền thống như
phân bón tự nhiên engrais naturels
trên những Cây trồng nông nghiệp ở bretonnes, đặc biệt để trồng những bông cải chou-fleur.
▪ Nó
cũng được dùng như chất bổ sung của những thực phẩm gia súc và được sử dụng như
thành phần của một số nhất định những sản phẩm mỹ phẩm cosmétiques như những mặt nạ mặt masques faciaux.
Trường Tảo ruột Ulva intestinalis được sử dụng rộng rãi trong toàn thế giới, bao gồm Châu Á,
cho thực phẩm dinh dưởng, những thức ăn cho gia súc (đặc biệt cho những loài cá
(chanidés) và cho những heo porcs), như phân bón và cho những loại thuốc.
Nó cũng
được áp dụng như mồi câu cá appât de
poisson. Những lá rong khô và được nghiền nát có thể được sử dụng như bao
bì đóng gói cho nhiều thực phẩm aliments,
trong những súp soupes và như lớp phủ bên trên.
Nó đã
sãn có ở Nhật Bản Japon dưới dạng bột cho những sử dụng tương tự hoặc như chất
nhuộm xanh lá cây.
▪ Khi những cấy nuôi giống
Enteromorpha, môi trường sống được làm giàu bằng cách thêm ammonium hoặc
nitrate, sự tăng trưởng những mô tế bào được gia tốc và những tảo có thể tích
tự những nitrates dưới dạng dipeptides tạo thành từ 3 đến 7% của tổng số trọng
lượng khô.
Nó có thể được sử dụng nguồn chất
đạm azote này về sau để phát triển nhanh chóng hơn những chất dinh dưởng
nutriments bình thường đã sẳn có.
Những tảo hấp thu những chất đạm
azote bổ sung chủ yếu vào ban ngày, trong khi mà những hồng tảo rhodophytes hấp
thu chất dinh dưởng chủ yếu vào ban đêm.
Enteromorpha còn có thể cố định
những bicarbonates ở những pH trên 9, alors mà nhiều Rong đỏ algues rouges
không thể làm được.
Enteromorpha cũng có thể tích tụ
những polyphosphates và những lắng động có thể là dễ dàng sử dụng trong những
điều kiện cạn kiệt nguyên tố phosphore.
Thực phẩm và biến chế :
▪
Thực phẩm
▪ Những rong Trường Tảo ruột Ulva
intestinalis là ăn được và sử dụng theo truyền thống trong thực phẩm Viễn Đông Extrême Orient và trong Irlande và gần
đây hơn ở Pháp trong những món ăn thực phẩm khác nhau, thường dưới dạng mảnh
miếng.
▪ Trường Tảo ruột Ulva intestinalis
là một trong những thành phần của « nori
» Nhật Bản japonais. Trong hình thức sấy khô, thường nghiền nát, rong biển
Trường Tảo ruột Ulva intestinalis được thêm vào trong những món ăn súp soupes.
Những rong được rửa thật sạch sau
khi thu hoạch. Sau đó biến thành những tấm lá
mỏng và sấy khô, như những tấm lá porphyra hoặc sấy khô sau đó đun với nước
đường, tương và những thành phần khác để thành «mứt nori confiture de nori».
▪ Những
rong có thể nướng nhẹ cải thiện hương vị và nghiền nát thành bột để dùng trong
gia vị trên những súp soupes và những
thức ăn aliments, hoặc có thể nghiền
nát thành những mảnh nhỏ và được sử dụng như trang trí cho món ăn.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire