Tâm sự

Tâm sự

mercredi 23 mai 2012

Cây So đũa - Sesban - Agati


Sesban-agati
Cây So đũa
Sesbania grandiflora (L.) Poiret
Fabaceae
Đại cương :
Sesbania grandiflora ( còn được gọi là Agati, đồng nghĩa với Aeschynomène grandiflora )
Việt Nam tên gọi là cây so đũa, có những đặc tính và sự tích liên hệ với cây xem ra cũng rất thú vị.
Giống sesbania, gổm khoảng 50 loài thân mộc hoặc tiểu mộc hay những loài thảo mộc sống lâu năm, phân bố trong những nước vùng nhiệt đới hay cận nhiệt đới trên thế giới. Giống này gần với cây Robinia pseudoacacia, nguồn gốc ở Âu Châu, được biết nhiều dưới một tên  “giả Acacia ” .
Những hoa, lá non và những quả được gọi là Hoa Agati trắng Sesbania grandiflora var Grandiflora, là giống cây ăn được và được bán trong những chợ ở địa phương.
Những hoa này được ăn như rau xanh, hoa ăn không hay trộn với những thứ khác như salade.
Hoa so đũa đỏ Sesbania grandiflora var coccinea, cũng ăn được nhưng vị hơi đắng nên không được ưa thích lắm. Người ta chỉ ăn hoa so đũa trắng var Grandiflora.
Thực vật và môi trường :
Mô tả thực vật :
Cây so đũa, tiểu mộc, trưởng thành rất nhanh có thể cao 3 đến 8 m.
Vỏ tiết ra  mủ đỏ, gổ trắng mềm.
kép, 30 cm dài, các lá chét đều nhau, hình xoan tròn đầu, có khoảng 30 đôi lá chét tròn  dài 3 cm, không lông.
Rể cây so đũa sesbania grandiflora có những nốt u sần sùi, cũng như họ đậu ( đậu phọng ), sự hiện diện của vi khuẩn trong nốt Rhizobia japonicum có thể đóng vai trò chuyễn hóa trong cây.
Phát hoa, chùm thòng, 3 đến 4 hoa to, hoa trắng var Grandiflora và màu đỏ var coccinea, họ đậu nhưng rất đặc trưng cho cây so đũa. Hoa hợp lại thành những nhóm nhỏ, hoa lớn, 7 đến 9 cm, đài hoa chẻ đôi khoảng 2,5 cm dài. Cánh hoa 5, cánh hoa được phân biệt bởi cùng một dạng, thẳng đứng trải rộng 2 bên hoa, giống như lườn tàu. Chùm hoa không phân nhánh, rủ xuống, đáy ống tiểu nhụy tiết nhiều mật.
Trái thòng, trái so đũa trong giống như trái đậu xanh, nhưng dài và lớn hơn, thẳng, dẹp và mỏng, 30 – 50 cm, nỏ ra làm 2 mảnh .
Hột nhiều khoảng 15 – 50 hột, hình thận màu nâu.
Cây phát triển mạnh dưới ánh sáng trực tiếp của mặt trời và rất nhạy cảm với độ lạnh đóng băng rét.
Bộ phận sử dụng :
Thân, lá, hoa và hạt.
Thành phận hóa học và dược chất :
► Thành phần hóa học của Lá cho 100 g :
- Nước 73.1 g,
- Chất đạm protéine 8.4 g,
- Chất béo lipide 1.4 g,
- Chất xơ thực phẩm  2.2 g,
- Tro 3.1 g ,
- Calcium 1,130 mg ,
- Phosphore  80 mg ,
- Sắt Fe 3.9 mg ,
- Vitamine A  9,000 IU,
- Thiamine  0.21 mg,
- Riboflavine 0.09 mg ,
- Niacine 1.2 mg ,
- Và acide ascorbique 169 mg .
► Thành phần dinh dưởng Lá, cho 100 g
( ZMB độ ẫm 0, Zero-Moisture Basis )
- Năng lượng 321 calories,
- Chất đạm protéine 36.3 g
- Chất béo lipides  7.5 g
- Đường glucides  47.1 g
- Chất xơ thực phẩm 9.2 g
- Tro  9.2 g
- Calcium  1684 mg
- Phosphore  258 mg
- Sodium Na  21 mg
- Kalium K  2,005 mg
- b-carotene tương đương  25,679 mg,
- Thiamine 1.00 mg
- Riboflavin  1.04 mg
- Niacine  9.17 mg 
- Ascorbique acide  242 mg 
► Thành phần dinh dưởng Hoa, cho 100 g :
( ZMB độ ẫm 0, Zero-Moisture Basis)
- Năng lượng  345 calories
- Chất đạm protéine  14.5 g
- Chất béo lipides  3.6 g
- Đường glucides  77.3 g
- Chất xơ thực phẩm  10.9 g
- Tro  4.5 g
- Calcium Ca  145 mg
- Phosphore  290 mg
- Sắt Fe  5.4 mg
- Sodium Na  291 mg
- Kalium K  1,400 mg
- b-carotene tương đương  636 mg,
- Thiamine 0.91 mg
- Riboflavine  0.72 mg
- Niacine  14.54 mg
- Ascorbique acide  473 mg .
► Hạt chứa :
- Chất béo lipide 7.4% ,
- Đường glucide toàn phần 51.6%,
- và tro 4.5% .
► Tinh dầu So đũa chứa :
- Palmitique  12.3% ,
- Stearique  5.2%,
- Oleique  26.2%,
- và linoleique acide 53.4%.
Chất đường invertase lớp ngoại bì của  vi khuẩn Rhizobia japonicum và vai trò của chúng trong quá trình chuyển hóa đường trong các nốt sần của rể.
Sự sản xuất đường invertase thấp khi những đường glucose, galactose, mannose, fructose và farrinose đã được sử dụng như nguồn của carbon trong môi trường tăng trưởng.
● Hàm lượng đường fructose yếu so với đường glucose trước khi vào tế bào vi khuần. Hàm lượng glucose được đồng hóa với mô hình của sự thay đổi theo hoạt động đường invertase trong nốt sần ( Singh và al, 1980 )
Đặc tính trị liệu :

- Tạo khẩu vị bữa ăn recours à apéritif,

- Lợi tiểu diurétique,

- émétique,

- emménagogue,

- hả sốt fébrifuge,

- nhuận trường laxatif,

- và là thuốc bổ tonique,

Agati hay so đũa là một đơn thuốc bình dân để :

- sạy sát tổn thương contusions,

- chứng viêm nước catarrhe,

- kiết lỵ dysenterie,

- mắt yeux,

- sốt fièvres,

- đau đầu,

- bệnh đậu mùa variole,

- vết thương plaies,

- đau cổ họng

- và viêm miệng (Duke et Wain, 1981 ).

Vỏ cây so đũa, lá, chất nhựa, và hoa so đũa được xem như một vị thuốc.
● Vỏ, là chất làm se được dùng để trị :
- bệnh đậu mùa variole
- và bệnh sốt fièvrse éruptives.
● Nước ép của hoa được dùng chữa trị bệnh :
- đau nhức đầu,
- sung huyết đầu congestion tête,
- hay nghẹt mũi.
Như “ thuốc lá bộttabac à priser, nước ép so đũa được dùng thông xoang mũi viêm sinus nasal.
● Lá so đũa được bào chế thành thuốc dán đắp lên những vết đau tím bầm.
Trường hợp bị sưng thấp khớp dùng thuốc dán lá so đũa hay chà lên với dung dịch nước nấu sắc dạng bột của hoa loại đỏ ( var . coccinea ).
● Ở Ấn Độ, Hoa được xem như một “ Hoa thiêng liêng Siva ”, tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam và nữ, và người ta không tìm thấy vấn đề, đề cập đến việc sử dụng chúng như là thuốc kích thích tình dục.
Theo y học truyền thống Ayurvédique của Ấn Độ, người ta tin rằng :
► Trái so đũa :
- những trái so đũa có tác dụng chống lại các bệnh truyền nhiễm và nhiễm trùng và ảnh hưởng bởi các độc chất nói chung alexiteric
- thuốc nhuận trường,
- kích thích trí tuệ,
- đơn thuốc cho bệnh thiếu máu,
- viêm phế quản,
- giảm sốt,
- đau nhức,
- khát,
- ung bướu tumeurs,
- tạo khẩu vị bữa ăn apéritif,
- làm lạnh réfrigérants,
- trội dư mật biliousness,
- bệnh thống phong goutte
- chứng quáng gà hay trú manh nyctalopia
- sốt định kỳ ( 4 ngày / lần )
► Rể :
- chống viêm sưng
► Vỏ :
- như chất là se,
► Lá :
- chống lại những tác nhân gây bệnh truyền nhiễm và độc chất alexiteric.
- trục giun sán,
- chứng động kinh épilepsie,
- ghẻ ngứa gale
- thống phong goutte,
- phong cùi lèpe,
- chứng trú manh hay chứng quáng gà nyctalopia,
- và bệnh đau mắt.
● Người Ấn Độ, áp dụng :
● Rể cây so đũa sesbania grndiflora trong các bệnh :
- phong thấp,
● Nước ép của lá và hoa cho những bệnh :
- đau nhức đầu,
- chứng viêm nước mũi catarrhe nasal.
Người ta trộn rể với Cà độc dược Datura stramonium, bào chế thành thuốc dán, đắp vào chổ sưng đau
● Tại Amboina,
- dung dịch nước ép của hoa được nhỏ vào mắt để điều chỉnh thị lực bị lu mờ.
- Vỏ được ngâm trong nước đun sôi để chữa trị bệnh đậu mùa variole.
● Ở Cam Bốt,
- hoa được xem như chất làm mềm và thuốc nhuận trường,
- vỏ so đũa trị tiêu chảy, bệnh kiết lỵ và bệnh sốt rét paludisme.
● Tại Mả Lai,
- dùng lá nghiền nát trong trường hợp bong gân entorse hay sây sát tổn thương.
- dùng dung dịch nước ép lá so đũa súc miệng, để tẩy sạch miệng và cổ họng.
▪ với một liều lượng nhỏ, vỏ so đũa dùng để chữa trị bệnh kiết lỵ dyssenterie và bệnh tã nhiệt đới sprue.
▪ dùng một liều mạnh là thuốc nhuận trường
▪ nếu liều lớn hơn nhiều, có thể trở nên quan trọng gây nôn mữa.
Vỏ cây so đũa được dùng chữa bệnh ghẻ ngứa gale.
● ở Phi luật Tân, dùng vỏ cây so đũa đập nát trị bệnh ho ra máu hémotypsie.
- Bột vỏ cũng được dùng chữa loét miệng và loét ống tiêu hóa.
● Ở Nam Dương, vỏ cây so đũa dùng trong trường hợp :
- rối loạn tiêu hóa trẻ em
- và chứng tưa miệng muguet.
Lá so đũa được nhai tác dụng sát trùng miệng và cổ họng.
Thực phẩm và biến chế :
Hoa của cây so đũa sesbania grandiflora được ăn như rau trong khu vực Đông Nam Á, như Lào, Việt Nam, Thái Lan, Java của Nam Dương và vùng Ilocos của Phi luật Tân.
Trong ngôn ngử Thái Lan được gọi là Dok khae được sử dụng trong nấu ăn như món cà ri, chẳng hạn như món “ Kaeng som ” và những nguyên liệu với “ nam phrik ”, ( nam phrik là thuật ngử Thái Lan với thành phần thông thường : ớt tươi hay khô, tỏi, hẹ tây, nước cốt chanh, và thường xuyên với một số loại cá tôm……..).
- Quả và lá non ăn được.
► Ở Việt Nam, miền quê, tại Vĩnh Long độc đáo với món canh chua bông so đũa, đặc biệt vì nơi đây bông so đũa lớn và tươi. Bông so đũa nấu canh chua có mùi vị thơm ngon kỳ lạ. Bông so đũa luộc chấm tôm kho Tàu rất ngon.
Giai thoại :
So đũa không những cho người ăn, loài dê cũng thích không kém. Dê thích ăn đủ thứ lá đặc biệt là lá so đũa nên có những huyền thoại thú vi liên hệ giữa dê và lá so đũa, nên người ta tưởng lá so đũa dùng để cho dê ăn, nhưng trong chuyện “ dương xa ” xe dê, thời Tần thủy Hoàng trong sử Trung Hoa :
“ Tần Thủy Hoàng có mấy ngàn cung phi mỹ nữ, nên sau buổi chầu mệt mỏi lên ngồi xe dê, mặc cho nó kéo đi đâu thì đi. Có nàng Tăng Diệp xuất thân con nhà nông, biết ý dê thích ăn so đủa, nên nàng rải nó tới tận phòng mình. Thế là dê ta cứ vừa đi, vừa ăn lần lần tới phòng nàng mà thôi. Thế là nàng tha hồ được ơn mưa móc ”.
Từ đó mới có câu chuyện « nơi nào có so dũa có dê tới » nên có câu hỏi của một cô gái nói với Bà  Mẹ: “ Má sao nhà mình không trồng so đũa mà dê đến nhiều quá vậy Má ”……..kể ra cũng hay hay! ! ! !


Nguyễn thanh Vân